THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG,
QLMT TẠI LÀNG NGHỀ
VẠN PHÚC - THÀNH PHỐ HÀ ĐÔNG - TỈNH HÀ TÂY
I, Tổng quan về làng nghề và các vấn đề môi trường
làng nghề của Hà Đông
Thành phố Hà Đông có diện tích tự nhiên 4.832,64ha. Gồm 15
đơn vị hành
chính (8 xã và 7 phường). Dân số năm 2006 có 179.302 người,
trong đó dân số
nội thị chiếm 88.708 người chiếm 49,47%, khu vực nông
thôn có 90.594 người
chiếm 50,53%, mật độ dân số là 3.772 người/km 2 . Không chỉ
là trung tâm kinh
tế văn hóa, khoa học công nghệ, giáo dục của tỉnh Hà Tây và
là một trong những
cửa ngõ quan trọng của thủ đô Hà Nội, thành phố Hà Đông còn
nằm trong chuỗi
đô thị của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Đây là vị trí địa
lý rất lớn trong việc
phát triển kinh tế xã hội của thành phố.
Thành phố Hà Đông vốn có nhiều làng nghề có truyền thống từ lâu đời với
làng nghề dệt nhuộm Vạn Phúc, Dương Nội; làng rèn Đa Sỹ - Kiến
Hưng, nghề
mỹ nghệ Huyền Kỳ- Phú Lãm…
Trong những năm qua nhờ sự đầu tư của thành phố cùng với việc
nhu cầu
về các sản phẩm làng nghề như dệt nhuộm, thủ công mỹ nghệ gia tăng nên các
làng nghề tại Hà Đông đang phát triển mạnh. Một số làng nghề
như làng nghề
dệt nhuộm La Khê đang dần được khôi phục. Sự phát triển của
làng nghề đã tạo
thêm thu nhập cho người dân. Theo ước tính thu nhập trung
bình của các làng
nghề trên địa bàn thành phố khoảng 600.000 đến 700.000 đồng.
Hoạt động sản
xuất của các làng nghề đã làm thay đổi bộ mặt của các làng nghề.
Đời sống
người dân được cải thiện, các hoạt động sản xuất, kinh doanh
dịch vụ ngày càng
tấp nập. Số hộ gia đình chuyển từ nông nghiệp sang sản xuất
kinh doanh sản
phẩm làng nghề ngày càng tăng.
Bên cạnh sự phát triển đáng vui mừng ấy là những nỗi lo về
các vấn đề ô
nhiễm tại các làng nghề. Môi trường sản xuất chật hẹp và mật
độ các hộ gia đình
sản xuất cao cùng với việc chất thải làng nghề đang vô tư thải
ra không được xử
lý đã khiến cho môi trường tại đây đang xuống cấp trầm trọng.
Hiện nay giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường làng nghề, đặc
biệt là ở các
làng nghề dệt nhuộm, sơn mài đang là vấn đề mà tỉnh Hà Tây
nói chung và thành
phố Hà Đông nói riêng chưa thể giải quyết. Theo khảo sát về
hiện trạng môi
trường các làng nghề trên địa bàn thành phố Hà Đông cho thấy
ô nhiễm ở đây đã ở
mức báo động nhất là vấn đề môi trường nước mặt tại sông Nhuệ
và sông La Khê.
*) Về hiện trạng
môi trường không khí:
Tại hầu hết các điểm lấy mẫu đều có các chỉ tiêu NO2, SO2,
và bụi lơ lửng
vượt quá tiêu chuẩn cho phép (TCVN 5937 – 2005). Các chỉ
tiêu còn lại như
CO, CO2, hơi xăng nhìn chungđều thấp hơn tiêu chuẩn cho
phép.
Về ô nhiễm tiếng ồn: Ô nhiễm tiếng ồn phát sinh ra chủ yếu từ
2 làng nghề:
Làng nghề Vạn Phúc tiếng ồn phát sinh từ các máy dệt lụa và
làng nghề Đa Sỹ
phát sinh tiếng ồn từ các máy cán, dập dao kéo.
Bảng 2.1 Chất lượng môi trường không khí tại một
số làng nghề trên địa bàn
thành phố Hà Đông
TT Tên làng nghề Chỉ tiêu chất lượng không khí
Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường thành phố Hà Đông
*) Hiện trạng môi trường nước:
Vấn đề ô nhiễm môi trường nước do các làng nghề gây ra là vấn
đề đáng lo
ngại nhất. Theo kết quả phân tích chất lượng nước tại các
làng nghề Vạn Phúc,
La Khê, Phú Lãm, Dương Nội cho thấy hiện tượng các nguồn nước
mặt của các
làng nghề đều bị ô nhiễm bởi các các nguồn nước thải do
chính các làng nghề
thải ra. Điển hình như xã Dương Nội (Hà Đông) tỷ lệ Colifoms
là 28MPN/100l,
gấp 9,3 lần tiêu chuẩn cho phép. Lượng nước thải do các làng
nghề thải ra hầu
như không qua xử lý được đổ trực tiếp vào sông Nhuệ, đặc biệt
là nước thải từ
các làng nghề dệt, nhuộm gây ô nhiễm sông Nhuệ tiêu diệt các
loài thủy sinh, tác
động xấu tới sản xuất, sinh hoạt người lao động. Theo các kết
quả phân tích cho
thấy, tại nhiều điểm quan trắc, lấy mẫu trên lưu vực sông
Nhuệ đều có nồng độ
BOD5, COD, coliform đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Đoạn sông
thuộc địa
bàn phường Vạn Phúc có nồng độ BOD5, COD, coliform cao hơn
tiêu chuẩn cho
phép từ 3 - 5 lần.
Bảng 2.2Chất lượng môi trường
nước mặt trên địa bàn thành phố Hà Đông
TT Tên vị trí lấy mẫu Chỉ tiêu chất lượng nước mặt
TCVN 5942-1995 (Cột B) 5,5 -9 >35 <25 80 15
Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường thành phố Hà Đông
Ô nhiễm tại các làng nghề dệt, nhuộm gây ô nhiễm sông Đáy,
sông Nhuệ tiêu diệt
các loài thủy sinh, tác động xấu tới sản xuất, sinh hoạt người
lao động. Qua khảo
sát, tại các làng nghề dệt, nhuộm các bệnh thường gặp về đường
hô hấp là 10-20%,
bệnh về mắt 10-20%, bệnh phụ khoa 10-30%, bệnh về đường tiêu
hóa 10-20%.
2.2 Giới thiệu về làng nghề Vạn Phúc
2.2.1 Giới thiệu chung về làng nghề Vạn Phúc
Vạn Phúc là một làng nghề truyền thống đã và đang trở thành
làng du lịch,
tốc độ đô thị hóa của địa phương ngày càng tăng. Từ
01/11/2003 theo Nghị định
107/NĐ-CP của Chính phủ xã Vạn Phúc đã trở thành một Phường
của thị xã Hà
Đông với diện tích trên 9.620 người với 2500 hộ dân, có 12
khối phố, khu dân cư.
Thành phần cơ cấu kinh tế của Phường Vạn Phúc gồm:
+) Sản xuất công nghiệp : 63,0%
+) Kinh doanh, thương mại, dịch vụ : 33,2%
- Sản xuất thủ công nghiệp đã tạo ra việc làm thường xuyên
cho 2100 lao
động (chiếm khoảng 21,83% dân số, ngoài ra còn tạo ra việc
làm thường xuyên
cho trên 300 lao động từ các địa phương khác đến làm việc.
Thu nhập trung bình
của lao động thủ công nghiệp đạt 600.000 đến 700.000đồng/
người/ tháng.
Tổng thu nhập do sản xuất thủ công nghiệp ước đạt 22 tỷ đồng.
- Sản xuất nông nghiệp: Diện tích đất nông nghiệp: 44,55ha.
Trong đó diện
tích cấy lúa 34,55ha, trồng mầu 10ha. Năng suất cả năm đạt
12,2 tấn/ha. Giá trị
sản xuất nông nghiệp đạt 35triệu đồng/ha. Hiện nay, do làng
nghề phát triển,
nhiều hộ gia đình đã chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang sản
xuất thu công là
nguồn thu nhập chính của gia đình, sản xuất nông nghiệp là
phụ.
Hiện nay đã có gần 400 hộ vừa sản xuất nông nghiệp vừa dệt lụa,
chiếm
50% số hộ xã viên nông nghiệp khung dệt. Cơ cấu nông nghiệp
chỉ còn 3,8%.
- Kinh doanh dich vụ và các hoạt động dịch vụ chiếm 33,2%.
Hiện nay, có
110 cửa hàng bán, giới thiệu sản phẩm lụa. Ngoài ra các cửa
hàng kinh doanh sản
phẩm của làng nghề, các hoạt động về cơ khí, vận tải phục vụ
cho sản xuất làng
nghề các hoạt động phục vụ cho ăn uống, xây dựng cũng phát
triển mạnh.
Hoạt động kinh doanh dịch vụ đã tạo cho người lao động có
nguồn thu nhập
khá cao, bình quân đạt 1,1- 1,3 triệu đồng/người/ tháng. Ước
tính do các hoạt
động kinh doanh đạt 39 tỷ đồng.
- Về giáo dục, y tế: Trường tiểu học, Trung học cơ sở đã đảm
bảo 100%
cháu trong độ tuổi được đến trường.
Để đảm bảo công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu, phòng và chống
dịch
bệnh, Phường đã xây dựng Trạm y tế đạt tiêu chuẩn quy định của
Bộ y tế, đã
khám cho 9.204 lượt bệnh nhân, tổ chức tốt công tác dân số
KHHGĐ, tỷ lệ phát
triển dân số tự nhiên là 1,6%. Công tác tiêm chủng mở rộng đảm
bảo 100% các
cháu trong độ tuổi quy định được tiêm, uống văcxin phòng dịch
bệnh. Trạm đã
không để dịch bệnh xảy ra, đã phối hợp triển khai công tác
kiểm tra an toàn thực
phẩm trên địa bàn.
- Về cơ sở hạ tầng: Phường Vạn Phúc nằm 2 bên đường Quốc lộ
430. Và
100% hộ gia đình được sử dụng điện, khoảng 90% dùng nước máy
và 10% dùng
nước giếng khoan.
- Về công tác văn hóa:
Cuộc vận động “toàn dân xây dựng đời sống văn hóa” đã trở
thành phong
trào rộng khắp, được nhân dân ở từng cụm dân cư tích cực
tham gia hưởng ứng,
góp phần xây dựng nếp sống văn hóa, giữ gìn bản sắc truyền
thống, quan hệ xã
hội, tình làng nghĩa xóm gắn bó để cùng chung sức phát triển
kinh tế làng nghề.
- Công tác chính trị, an ninh quốc phòng, an toàn trật tự xã
hội:
Công tác an ninh chính trị được giữ vững và ổn đinh, đảm bảo
an toàn tuyệt
đối cho khách đến tham quan, mua sản phẩm làng nghề. Phong
trào quần chúng
bảo vệ an ninh Tổ Quốc đã được toàn dân tham gia hưởng ứng,
tệ nạn xã hội đã
từng bước được đẩy lùi.
2.2.2 Tình hình hoạt
động sản xuất của làng nghề Vạn Phúc
2.2.2.1. Sản phẩm
làng nghề:
Trải qua hàng nhiều thế kỷ, thương hiệu lụa Hà Đông ngày
càng được phát
triển không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn được xuất khẩu
sang nhiều nước.
ngày nay trước sự phát triển mạnh mẽ của cơ chế thị trương,
nghề dệt lụa của
Vạn Phúc ngày càng có điều kiện phát triển. Hiện nay, sản lượng
lụa hàng năm
từ 2,5 đến 3 triệu mét lụa các loại. Với những mặt hàng tơ tằm
như: Vân, Sa,
Quế, Lụa sa tanh hoa các loại đủ màu sắc, mẫu mã phong phú
được tiêu tụ rộng
rãi trong cả nước. Nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường, tiến
tới sự phát triển lâu
dài Vạn Phúc đang đầu tư xây dựng khu vực sản xuất tập trung
trên diện tích
15ha để có cơ sở đầy tư, cải tiến đổi mới trang thiết bị kỹ
thuật, nâng cao năng
suất và chất lượng sản phẩm nhằm thỏa mãn hơn nữa với người
tiêu dùng và tiến
tới thị trường xuất khẩu, đồng thời tạo ra một mô hình cảnh
quan của một làng
nghề, làng du lịch.
Xét chung về làng nghề có hai loại sản phẩm chính là lụa và
sa tanh. Giá
thành sản phẩm lụa dao động từ 50.000- 80.000đồng/mét; giá sản
phẩm sa tanh
từ 70.000 – 100.000đồng/mét tùy thuộc vào chất lượng sản phẩm.
2.2.2.2. Tình hình công nghệ sản xuất và môi trường lao động:
Trước đây, Vạn Phúc chỉ dệt bằng khung dệt thủ công với chưa
đầy 100
khung dệt, nay đã tăng lên trên 1000 khung dệt và đã được cơ
giới hoá 100.
Khảo sát thực tế tại các cơ sở sản xuất và tiến hành phỏng vấn
15 hộ dân cư
không làm nghề hoặc làm ở mức độ rất nhỏ của làng nghề Dệt
nhuộm Vạn Phúc
cho thấy toàn bộ các xưởng dệt nhuộm xen kẽ trong khu dân cư
có quy mô vừa
và nhỏ (trung bình khoảng 5 đến 6 máy dệt/ hộ gia đình), hoạt động mang tính
chất kinh tế hộ gia đình liên tục suốt ngày đêm ( 10 giờ/
ngày) nên ảnh hưởng
của các yếu tố sản xuất về tiếng ồn trực tiếp đối với người
lao động cũng như các
thành viên hộ gia đình và dân cư xung quanh. Ngoài ra, trên
địa bàn Phường Vạn
Phúc còn có 3 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sản phẩm dệt
nhuộm gồm nhà
máy dệt Hà Đông, Công ty cổ phần len Hà Đông và Tổ hợp tác
Tuấn Hải.
Theo khảo sát không gian sản xuất của các hộ gia đình trong
làng nghề là
nhỏ so với yêu cầu sản xuất và sinh hoạt. Hầu hết các hộ gia
đình đều tận dụng
đất thổ cư của mình để xây dựng nhà xưởng. Nhà xưởng được
xây dựng tạm bợ,
không có khu xử lý nước thải sản xuất riêng. Toàn bộ nước thải
sản xuất được đổ
trực tiếp ra cùng nước thải sinh hoạt.
Đầu tư vốn cố định ban đầu cho nhà xưởng, máy móc và thiết bị
trung bình
khoảng 80 – 100 triệu đồng/hộ gia đình. Giá thành máy dệt
cũng có sự giao động
khá lớn từ 7 – 20 triệu đồng. Sản lượng các máy dệt cũng
khác nhau. Máy dệt
Việt Nam cho sản lượng khoảng 30m lụa/ tháng. Máy Hàn Quốc
cho sản lượng
40m lụa/tháng. Khi đầu tư vào các máy dệt người dân chỉ căn
cứ vào độ bền và
sản lượng, chất lượng vải chứ không chú ý đến lượng thải mà
các máy dệt thải
ra. Hiện nay, khâu nhuộm vải vẫn còn thủ công hoàn toàn khi
phải dùng bếp lò
than công suất rất nhỏ.
Đối với các nhà máy thì công nghệ sử dụng hiện đại hơn và
trong quá trình
đầu tư xây dựng cũng đã chú ý đến công tác vệ sinh môi trường
như bước đầu đã
có một số biện pháp làm giảm mức độ ô nhiễm của nước thải đầu
nguồn trước
khi thải ra hệ thống thoát nước chung của thành phố, kết hợp
lựa chọn sử dụng
các loại hóa chất thuốc nhuộm không nguy hại đến môi trường,
nâng cao chất
lượng dầu đốt… Tuy nhiên, các biện pháp này vẫn còn sơ sài,
mức độ ô nhiễm
của nước thải vẫn còn cao.
2.2.2.3. Tình hình nguyên, vật liệu đầu vào:
Nguyên liệu chủ yếu là tơ sợi theo từng chủng loại vải định
dệt. Cụ thể, để
dệt vải thô người ta sử dụng sợi tổng hợp Polyeste và sợi
pha PE/Co, dệt khăn
mặt dùng sợi bông cotton, dệt gạc sử dụng sợi pha PE/Co có
thành phần cotton
cao hơn.
Mỗi năm sản lượng sản xuất của địa phương đạt 2,5 triệu mét
lụa các loại.
Trong đó 1,5 triệu mét phải qua công nghệ tẩy nhuộm. Để có
được 1m lụa cần
qua hai giai đoạn là nấu tẩy và tẩy nhuộm. Trung bình 1m lụa
phải dùng từ 8-10
lít nước. Số lít nước dùng cho việc tẩy nhuộm có thể sẽ lớn
hơn vì còn tuỳ thuộc
vào việc nhuộm đậm hay nhạt.
Người dân sử sụng thuốc nhuộm có nguồn gốc từ Trung Quốc, được
bán
tràn ngập trên thị trường. Quá trình dệt, nhuộm, in hoa có sử
dụng hóa chất,
thuốc nhuộm như sút, Javen, H2O, CH3COOH, H2S, thuốc nhuộm
axít, thuốc
nhuộm lưu huỳnh (đá, Na2S), thuốc nhuộm trực tiếp... và rất
nhiều nước trong
các công đoạn sản xuất. Một tác nhân nữa góp phần gây ô nhiễm
môi trường là
thành phần trong tơ tằm, bởi qua khâu tẩy, thải ra 25% tạp
chất. 1m lụa có trọng
lượng 80g sẽ thải ra ngoài nước 20g tạp chất.... Người lao động
tại làng nghề làm
việc trong môi trường chứa nhiều hóa chất độc hại, đồng thời
lại không có sự
bảo hộ nên nguy cơ mắc bệnh là rất cao. Qua khảo sát, tại
các làng nghề dệt,
nhuộm các bệnh thường gặp về đường hô hấp là 10- 20%, bệnh về
mắt 10- 20%,
bệnh phụ khoa 10- 30%, bệnh về đường tiêu hóa 10- 20%. Ông
Nguyễn Hữu
Chỉnh – Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Dệt lụa Vạn Phúc cho biết:
“Vài năm gần
đây, người dân Vạn Phúc chủ yếu mắc bệnh về phế quản, tỉ lệ
người bị suy
nhược cơ thể, suy nhược thần kinh, điếc ngày càng tăng. Số
người chết do ung
thư nhiều hơn trước, trung bình mỗi năm ở Vạn Phúc có 3 người
chết vì ung thư
– chiếm trên 60% số ca tử vong của làng”.
2.3 Thực trạng môi trường làng nghề Vạn Phúc
2.3.1 Công nghệ sản
xuất và các vấn đề môi trường liên quan
Tại Vạn Phúc công nghệ sản xuất cũng được cải thiện và nâng
cấp để tăng
năng suất cũng như chất lượng của sản phẩm đáp ứng nhu cầu
thị hiếu khách
hàng, do đó sản phẩm dệt ra phải qua tẩy nhuộm màu với nhiều
loại hoá chất hơn.
Điều bày đồng nghĩa với việc lượng hóa chất thải ra môi trường
cũng ngày càng
nhiều hơn nếu như không có các biện pháp nhằm xử lý chất thải.
Sơ đồ 2.1 Sơ đồ dòng thải quá trình dệt nhuộmtại
làng nghề Vạn Phúc
Nguồn: Báo cáo ĐTM dự án cụm công nghiệp làng nghề Vạn Phúc
Trong hầu hết các công đoạn của quá trình dệt nhuộm. Trong
đó nước thải
là vấn đề nghiêm trọng nhất. Nước thải có chứa hóa chất sử dụng
để tẩy trắng,
Nguyên liệu đầu vào
Quy trình công nghệ
nhuộm như Javen; Xút; CH3COOH và các tạp chất có chứa trong
tơ tằm… Phần
lớn các chất này đều có những ảnh hưởng xấu đối với sức khỏe
con người.
Ngoài ra, do quá trình giặt nhuộm người dân vẫn sử dụng
phương pháp thủ
công sử dụng nguyên liệu chính là than với hiệu suất không
cao do đó lượng khí
than và xỉ than thải ra khá lớn. Tiếng ồn từ các máy móc thiết
bị cũng là một vấn
đề nan giải.
Theo thống kê cho thấy thực trạng làng nghề Vạn Phúc đang ở
tình trạng ô
nhiễm đáng báo động.
2.3.2 Thực trạng môi trường tại làng nghề Vạn Phúc
2.3.2.1 Về hiện trạng
môi trường nước:
Lượng nước thải dùng trong các khâu dệt lụa, tẩy, nhuộm ở Vạn
Phúc khá
lớn. Trung bình một hộ làm nghề dệt dùng 2,84m3/ngày cho sản
xuất, bao gồm
nước thải dịch chuội 0,18m3, nước thải nhuộm 0,22m3, nước thải
giặt một lần
0,4m3 và các nước thải khác 2,04m3.
Bảng 2.3 Chất lượng môi trường
nước thải do các hộ dệt nhuộm thải ra
Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường thành phố Hà Đông
Hàm lượng BOD và COD trong nước thải do làng nghề Vạn Phúc
thải ra
cao gấp hàng trăm lần so với tiêu chuẩn cho phép. Lượng nước
thải sau sản xuất
cùng nước thải sinh hoạt chưa qua xử lý chảy hòa chung vào
mương thoát nước
rồi chảy ra sông Nhuệ gây ô nhiễm lớn. Tổng lượng nước sau sản
xuất và nước
thải sinh hoạt ở Vạn Phúc từ 235,3 - 285,3 m3/ngày. Nước thải
sau sản xuất chứa
nhiều hóa chất chưa qua xử lý của các làng nghề dệt, nhuộm
chảy trực tiếp ra các
thủy vực đang gây ô nhiễm tầng nước mặt. Đặc biệt sự ô nhiễm
đã đến mức báo
động tại sông Nhuệ và sông Đáy. Do sự ô nhiễm nghiêm trọng của
các nguồn
nước mặt nên số hộ gia đình còn sử dụng nguồn nước giếng đào
vào mục đích
ngày càng giảm.
2.3.2.2 Hiện trạng
môi trường không khí:
Bên cạnh sự ô nhiễm do nước thải gây nên, khí thải, tiếng ồn
phát sinh
trong các công đoạn dệt, nhuộm cũng đang tác động xấu tới
môi trường. Khí thải
được phát sinh chủ yếu từ các phân xưởng dệt, lò hơi và các
lò nấu tẩy nhỏ dùng
than để phục vụ cho quá trình giặt nóng, nấu, sấy, nhuộm…
Còn tiếng ồn sinh ra chủ yếu do vận hành máy dệt và quấn sợi,
sự va chạm
của thoi và khi guồng sợi vào các ống sợi.
Bảng 2.4 Chất lượng môi trường
không khí tại các hộ dệt nhuộm
Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường thành phố Hà Đông
Kết quả quan trắc tiếng ồn đo được tại Vạn Phúc gần 100 dBA,
đứng thứ
2/10 điểm đo trong tỉnh.
2.3.2.3 Hiện trạng
môi trường đất:
Do nước thải bị ô nhiễm ngấm xuống đất khiến cho đất bị
thoái hóa, năng
suất cây trồng vật nuôi giảm. Ở các khu vực canh tác lúa ở Vạn
Phúc đã có hiện
tượng lúa bị "lốp" nhiều lá, ít hạt. Trong trường
hợp này sản xuất làng nghề
không chỉ gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người mà còn làm giảm
lợi ích của
các hộ sản xuất nông nghiệp.
Sản xuất trong điều kiện đất đai chật hẹp khiến mức độ ảnh
hưởng trực tiếp
của ô nhiễm môi trường gây ra cho người dân làng nghề rất lớn.
Nếu không có
các giải pháp xử lý thì hậu quả sẽ rất nặng nề.
2.4 Thực trạng QLMT làng nghề Vạn Phúc
2.4.1 Thực trạnghoạt
độngQLMT làng nghề trên địa bàn thành phố Hà Đông
2.4.1.1 Hệ thống tổ
chức QLMT làng nghề tại thành phố Hà Đông
Phòng Tài nguyên và môi trường là cơ quan chuyên môn trực
thuộc UBND
thành phố Hà Đông, có chức năng tham mưu cho UBND thành phố
quản lý nhà
nước về tài nguyên và môi trường theo quy định của pháp luật. Đối với vấn đề
môi trường của làng nghề phòng tài nguyên môi trường thành
phố Hà Đông có
thẩm quyền hướng dẫn và kiểm tra hiện trạng môi trường tại khu vực làng nghề
và xung quanh, thực hiện bảo vệ môi trường, phòng chống, khắc
phục ô nhiễm;
Chủ trì hoặc phối hợp với các cơ quan có liên quan trong việc
kiểm tra và thanh
tra việc thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường.; Tuyên
truyền phổ biến, giáo
dục pháp luật, thông tin về tài nguyên và môi trường; Quản
lý danh sách cán bộ,
công chức; hướng dẫn, kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ đối với
cán bộ địa chính
xã, phường; Tham gia đề xuất với UBND thành phố và Sở Tài
nguyên và môi
trường trong việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức làm
công tác quản lý tài nguyên và môi trường và cán bộ địa
chính xã, phường;
Thẩm định cam kết bảo vệ môi trường hoặc các đánh giá tác động
môi trường
của các cụm điểm công nghiệp làng nghề.
Sơ đồ 2.2 Sơ đồ hệ thống tổ chức QLMT làng nghề tại thành phố
Hà Đông
Trong việc QLMT làng nghề Phòng Tài nguyên môi trường phải
phối hợp
với các phòng chịu trách nhiệm quản lý làng nghề . Trong các
phòng có liên
quan phải kể đến phòng công nghiệp thành phố Hà Đông. Phòng
Công nghiệp có
chức năng quản lý việc quy hoạch, phát triển làng nghề.
Phòng Công nghiệp và
Phòng Tài nguyên môi trường cùng trực thuộc UBND thành phố
Hà Đông và có
chức năng tham vấn việc giải quyết các vấn đề môi trường
làng nghề cho UBND
thành phố nhằm mục tiêu chung là sự phát triển bền vững của
làng nghề. Nhưng
Phòng Tài nguyên môi trường hướng đến mục tiêu môi trường
nhiều hơn trong
Các phòng
có liên quan
khi phòng Công nghiệp lại hướng đến mục tiêu về kinh tế. Mục
tiêu phòng Công
nghiệp là sự phát triển kinh tế của làng nghề, và tiêu chí
được sử dụng đấy là sự
gia tăng thu nhập của người dân, gia tăng nguồn ngân sách tại
làng nghề. Điều
này dẫn đến việc để đạt được những mục tiêuấy, các quyết định
của phòng Công
nghiệp đưa ra có thể bỏ qua các tiêu chí về môi trường.
Trong khi đó các quyết
định của Phòng Môi trường lại dựa trên tiêu chí môi trường
như hiện trạng môi
trường tại các làng nghề. Chính vì mỗi cơ quan hướng tới một
mục tiêu khác
nhau nên các văn bản Pháp luật đưa ra còn chồng chéo, ảnh hưởng
tới sự phát
triển bền vững của làng nghề.
*) Công tác cán bộ về
QLMT thành phố và cấp xã, phường:
- Hiện nay, số lượng cán bộ phụ trách về môi trường của
thành phố là 03
người . Trong đó, 02 người là cán bộ biên chế chính thức và
01 người là lao
động hợp động.
- Công tác QLMT của thành phố được phân cấp quản lý tới từng
khu phố,
thôn xóm. Tuy nhiên, tại cấp xã, phường của thành phố chưa
có được các cán bộ
chuyên trách về lĩnh vực này mà hầu hết là cán bộ kiêm nhiệm
thêm công tác môi
trường. Riêng đối với vấn đề môi trường tại làng nghề công
tác QLMT sẽ có sự
đại diện của ban quản lý làng nghề trước các cơ quan chức
năng.
*) Nguồn kinh phí cho công tác bảo vệ môi trường
Nguồn kinh phí cho công tác bảo vệ môi trường của thành phố
còn hạn chế,
chưa đáp ứng được nhu cầu của công tác bảo vệ môi trường
trong giai đoạn hiện
nay. Nguồn kinh phí này có được từ nhiều nguồn thu khác nhau
như từ nguồn
Ngân sách, từ các tổ chức quốc tế, từ nguồn đóng góp của các
cơ sở, hộ gia đình…
Hiện nay việc thu gom xử lý rác được giao cho công ty môi
trường đô thị
Hà Đông. Ngân sách sự nghiệp môi trường cấp cho Công ty môi
trường đô thị
Hà Đông năm 2007 là: 26.935.591.027 đồng, tuy nhiên chưa có
sự phân bổ riêng
cho làng nghề. Ngoài ra, hiện nay các làng nghề trên địa bàn
thành phố đã nhận
được nhiều hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế. Như tổ chưc ICETT
đã tài trợ 300 triệu
cho chương trình “nâng cao năng lực quản lý môi trường trên
địa bàn thành phố
Hà Đông”, trong đó đầu tư 200triệu vào dự án “thí điểm phân
loại rác tại nguồn
trên địa bàn phường Vạn Phúc”
2.4.1.2 Công tác quản
lý nhà nước về bảo vệ môi trường
*) Công tác đào tạo,tuyên truyền, phổ biến pháp luật về môi
trường
- Công tác đào tạo,tuyên truyền, phổ biến pháp luật về môi
trường được tích
cực triển khai nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ
làm công tác môi
trường của thành phố cũng như các xã, phường và nâng cao hiểu
biết, giáo dục
về môi trường cho các tầng lớp nhân dân trên địa bàn thành
phố. Cụ thể là thành
phố đã tích cực tham gia các buổi tập huấn môi trường do tỉnh
tổ chức và đã tổ
chức được các lớp tập huấn về Luật bảo vệ môi trường cho các
ban ngành, đoàn
thể của thành phố và lãnhđạo, cán bộ chuyên môn UBND các xã,
phường.
- Hàng năm, thành phố tham gia đầy đủ, tích cực các hoạt động
về môi
trường như tuần lễ quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường
, ngày môi
trường thế giới và các ngày lễ lớn về môi trường hàng năm… bằng
các hình thức
mít tinh, phát thanh, cổ động, diễu hành, băng rôn, khẩu hiệu
… do UBND tỉnh
và Sở Tài nguyên và môi trường phát động.
- Đối với làng nghề ngoài việc tham gia các hoạt động môi
trường nói
chung của thành phố, phòng Tài nguyên và môi trường còn phối
hợp với chính
quyền xã và hiệp hội, đoàn thanh niên, hội phụ nữ… các làng
nghề nhằm tổ chức
tuyên truyền phổ biến pháp luật và vận động bảo vệ môi trường
cho người dân.
- Năm 2007 Sở Tài nguyên và Môi trường và Đài Phát thanh và
truyền hình
Hà Tây đã phối hợp với Phòng Tài nguyên và Môi trường thành
phố Hà Đông thực
hiện được 01 phóng sự về hiện trạng môi trường làng nghề tỉnh
Hà Tây. Đồng thời
trong năm, Sở Tài nguyên và Môi trường cũng đã phối hợp với
Phòng Tài nguyên
và Môi trường thành phố Hà Đông tham gia 02 dự án “Đói nghèo và làng nghề ” ở
xã KiếnHưng và Dự án “Môi trường các làng nghề” tại xã Dương
Nội.
Công tác đào tạo,tuyên truyền, phổ biến pháp luật về môi trường
được tổ
chức khá nhiều nhưng thường chỉ lớn về mặt hình thức, chưa
đi sâu vào nội
dung, chưa truyền tải đến cho người dân được hết ý nghĩa của
công tác Bảo vệ
môi trường.
*) Công tác triển khai các văn bản Pháp luật và các quy định
về bảo vệ
môi trường tại địa phương
- Sau khi Luật Bảo vệ môi trường 2005 được ban hành Phòng
Tài nguyên
và Môi trường thành phố Hà Đông đã cử cán bộ tham gia 1 lớp tập huấn Luật
Bảo vệ môi trường 2005, đồng thời Ký hợp đồng với Đài phát
tranh thành phố về
công tác tuyên truyền Luật Bảo vệ môi trường và Hợp đồng với
Phòng giáo dục
Hà Đông về tuyên truyền giáo dục Bảo vệ môi trường trong
toàn ngành giáo dục.
Phòng đã Tổ chức được 01 lớp tập huấn Luật Bảo vệ môi trường
2005 trên địa
bàn toàn thành phố Hà Đông.
- Căn cứ vào Luật Tổ chức HĐND và UBND các cấp do Quốc hội
Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kì họp thứ 4
thông qua ngày
26/11/2003, Luật Bảo vệ môi trường ngày 27 tháng 12 năm
1993, Nghị định số
121/2004/NĐ-CP ngày 12/5/2004 của Chính phủ quy định về xử
phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và căn cứ vào
nghị quyết số
186/NQ-HĐND ngày 09/12/2005 của Hội đồng nhân dân thị xã Hà
Đông khóa
XVIII, kỳ họp thứ 5 về
việc thông qua Quy chế bảo vệ môi trường thị xã Hà
Đông theo Quyết định số 4683/QĐ-UB này 31/12/2005 của UBND
thị xã Hà
Đông. Hiện nay, quy chế này đang được sửa đổi nhằm phù hợp
Luật bảo vệ môi
trường 2005.
- UBND tỉnh Hà Tây đã ra Quyết định số 225/2005/QĐ-UB ngày
10/3/2005
về việc quy hoạch các cụm điểm công nghiệp làng nghề trên địa
bàn thị xã Hà
Đông đến 2010. Trong đó dự kiến thành lập 6 điểm công nghiệp
làng nghề.
Bảng 2.5 Danh mục quy hoạch các điểm công nghiệp làng nghề
trên địa bàn thị
xã HàĐông đến 2010
STT Tên điểm công nghiệp làng nghề Địa điểm Quy mô dự
kiến(ha) Ghi chú
1 Điểm công nghiệp Vạn Phúc Phường Vạn Phúc 13,9 Đã triển
khai
2 Điểm công nghiệp Đa Sỹ Xã Kiến Hưng 13,2 Đã triển khai
3 Điểm công nghiệp Dương Nội Xã Dương Nội 10
4 Điểm công nghiệp La Phù 2 Xã Dương Nội 10
5 Điểm công nghiệp Biên Giang Xã Biên Giang 11,5 Đã triển
khai
6 Điểm công nghiệp Phụng Châu Xã Phụng Châu 10 Đã triển khai
Tổng diện tích các điểm công nghiệp 68,6
Việc xây dựng các điểm công nghiệp làng nghề tạo sự đồng bộ
trong việc
xây dựng cơ sở hạ tầng (bao gồm cơ sơ máy móc, trang thiết bị,
nhà xưởng, các
khu xử lý nước thải, khí thải tập trung…). Điều này khiến
cho việc áp dụng các
công nghệ xử lý chất thải thuận tiện hơn. Và công tác QLMT
trở nên dễ dàng hơn.
Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là thực trạng ô nhiễm tại các
làng nghề. Hiện
nay, trên địa bàn thành phố Hà Đông chưa có điểm công nghiệp
làng nghề đi vào
sản xuất nhưng thực tế cho thấy trên toàn địa bàn tỉnh Hà
Tây vấn đề ô nhiễm tại
các cụm, điểm công nghiệp làng nghề đã ở mức báo động. Hà
Tây hiện có 24
cụm công nghiệp (CN) và 56 điểm CN làng nghề, một số đã hoạt
động còn một
số khác đang xây dựng nhưng đã phát sinh tình trạng ô nhiễm
môi trường trầm
trọng do rác, nước và khí thải từ các cơ sở này xả ra. Đặc
biệt, hiện nay các cụm,
điểm CN làng nghề mới chỉ thu gom được trên 50% lượng rác,
chất thải ứ đọng
đã gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Các doanh nghiệp, hộ
sản xuất kinh
doanh với mục tiêu lớn nhất là lợi nhuận, do đó ý thức bảo vệ
môi trường của họ
còn kém. Trong khi đó việc tổ chức quản lý lại lỏng lẻo,
không có sự giám sát
thường xuyên và những chế tài xử phạt nghiêm khắc khi có vi
phạm xảy ra, do
đó các doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh có thể thoải mái
thải chất ô nhiễm
ra môi trường. Công nghệ sử dụng trong các cụm, điểm công
nghiệp làng nghề
thường lạc hậu và kém hiệu quả. Có những cụm, điểm công nghiệp
còn không có
khu vực quy hoạch cho việc xử lý chất thải. Để tránh tình trạng
này, trước khi
tiến hành xây dựng cần phải có bước lập và thẩm định đánh
giá tác động môi
trường của các cụm điểm công nghiệp làng nghề một cách
nghiêm túc. Đồng
thời khi các cụm, điểm công nghiệp này đã đi vào hoạt động cần
có sự giám sát
chặt chẽ của các cơ quan chức năng về việc thực hiện cam kết
của doanh nghiệp.
- Hoạt động thẩm định, cấp Giấy xác nhận cam kết bảo vệ môi
trường và
thẩm định Báo cáo đánh giá tác động môi trường. Các dự án
thuộc diện phải lập
cam kết và báo cáo đánh giá tác động môi trường đãđượchướng
dẫn theo văn bản
Hướng dẫn sơ 1023/HD-UBND ngày 18/12/2006 về Trình tự, thủ tục
Lập, đăng
ký, xác nhận Bản cam kết bảo vệ môi trường trên địa bàn thị
xã Hà Đông. Đây
thực sự là một công cụ kỹ thuật quan trọng trong hoạt động
quản lý môi trường
đối với các dự án đầu tư nhằm kiểm soát và ngăn ngừa ô nhiễm.
Trong năm 2006 Phòng Tài nguyên và môi trường thành phố Hà
Đông đã
ký hợp đồng lập Báo cáo Đánh giá tác động môi trường tại hai
cụm công nghiệp
Yên Nghĩa và Vạn Phúc.
- Công tác quan trắc, kiểm tra giám sát về môi trường. Theo
hướng dẫn tại
Thông tư số 07/2007/TT-BTNMT ngày 03/7/2007 của Bộ Tài
nguyên và môi
trường thì việc phân loại và quyết định danh mục cơ sở gây ô
nhiễm môi trường
cần phải xử lý do Sở Tài nguyên và Môi trường cấp Tỉnh,
Thành phố trực thuộc
Trung ương thực hiện. Sở Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp
với Phòng Tài
nguyên và Môi trường thành phố Hà Đông tiến hành ra soát và phân loại đối với
các cơ sở sản xuất trên địa bàn thành phố. Trên cơ sở đó tiến
hành phân loại và
quyết định danh mục cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường cần
phải được xử
lý. Thực hiện chức năng giám sát của HĐND được quy định
trong Luật tổ chức
HĐND và UBND, Thường trực HĐND đã tổ chức các cuộc giám sát
tại một số
doanh nghiệp thuộc danh mục cơ sở sản xuất gâyô nhiễm, cơ sở
nằm trong danh
sách đơn thư khiếu nại, tố cáo.
Phòng Tài Nguyên Môi trường hằng năm phải thực hiện việc
quan trắc chất
lượng môi trường, lập báo cáo hiện trạng môi trường thành phố.
Trong năm
2007, phòng đã tiến hành 02 đợt quan trắc về môi trường, đồng
thời nhằm phục
vụ công tác quản lý Nhà Nước về môi trường Phòng đã dự định
sẽ đầu tư mua
sắm thêm một số trang thiết bị (gồm: máy đo nhanh các khí độc,
máy đo bụi, đo
tiếng ồn, thiết bị lấy mẫu và bảo quản mẫu nước).
Hiện nay trên địa bàn thành phố Hà Đông chưa có thuế đánh
vào nước thải
nguy hại. Đối với các doanh nghiệp hiện nay chỉ đánh thuế nước
thải với mức
phí bằng 1/3 mức phí nước cấp cho hoạt động sản xuất của
doanh nghiệp khi
doanh nghiệp sử dụng nước cấp của thành phố, đối với các hộ
sản xuất kinh
doanh làng nghề chưa thực hiện thu phí nước thải.
Mặc dù đã có nhiều văn bản pháp quy về quản lý môi trường
nhưng hệ
thống các văn bản này còn chưa đầy đủ, chồng chéo, gây ra
nhiều khó khăn cho
các đơn vị quản lý.
*) Chương trình hợp tác với các tổ chức. Nhằm tranh thủ sự
giúp đỡ từ các
tổ chức trong và ngoài nước trong UBND thành phố đã tạo mọi
điều kiện cho
các tổ chức tham gia vào hoạt động QLMT, nhất là đối với các
tổ chức phi chính
phủ (NGO). Vấn đề môi trường làng nghề trên địa bàn thành phố
là điều được sự
quan tâm biệt của các tổ chức này. Đã có nhiều dự án thăm
dò, thực hiện thí
điểm vào nhằm hướng tới mục tiêu cải thiện chất lượng môi
trường làng nghề.
Tuy nhiên, các dự án này đạt hiệu quả chưa cao.
Một số hoạt động hợp tác với các tổ chức:
- Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Đông đã tham gia hội
thảo “Làng nghề Việt Nam vấn đề môi trường, đánh giá rủi ro
và các giải pháp
xử lý” do Bộ Tài nguyên và môi trường và CHLB Đức kết hợp tổ
chức. Đoàn
chuyên gia Đức cùng lãnh đạo Bộ Tài nguyên và môi trường,
các ngành, trường
Đại học Khoa học tự nhiên tham quan và làm việc với xã Dương
Nội. Đoàn
chuyên gia Đức đã lựa chọn Dương Nội để nghiên cứu và đầu tư
kinh phí giúp
đỡ xã giải quyết vấn đề môi trường.
- Dự án nằm Chương trình hợp tác môi trường châu Á giữa
ICETT (trung
tâm chuyển giao công nghệ Nhật Bản) và thị xã Hà Đông nhằm mục
tiêu là sự
phát triển bền vững tại mỗi địa phương, quản lý hành chính về
môi trường tại
cấp chính quyền địa phương, tăng cường hiệu lực của luật và các quy đinh, phát
triển công nghệ môi trường sử dụng nguồn lực địa phương,
nâng cao nhận thức
về môi trường tại các cấp cơ sở.
2.4.2 Thực trạng QLMT
làng nghề Vạn Phúc
Các vấn đề môi trường tại làng nghề Vạn Phúc đang là yêu cầu
cấp bách
hiện nay đối với thành phố Hà Đông và rất cần có những biện
pháp quản lý và
xử lý thích hợp.
Hiện nay, thành phố Hà Đông đã có những bước đi nhằm hướng đến
sự
phát triển bền vững cho làng nghề Vạn Phúc.
2.4.2.1 Xây dựng làng
nghề kết hợp sản xuất du lịch:
Vào năm 2003, UBND tỉnh Hà Tây đã phê duyệt dự án quy hoạch
làng
nghề Vạn Phúc thành một điểm du lịch hấp dẫn với số vốn đầu
tư là 56 tỷ đồng.
Mặc dù Dự án này đã được thông báo cho các chủ cơ sở dệt lụa
nhưng tất cả vẫn
còn trên giấy tờ, và chưa thấy có tỉnh có động thái gì. Hiện
nay việc phát triển du
lịch tại làng nghề hoàn toàn mang tính tự phát chưa có sự
liên kết cũng như định
hướng của các cơ quan chức năng. Tại làng nghề cũng đã hình
thành hiệp hội
làng nghề nhưng hiện nay hiệp hội làng nghề vẫn chưa phát
huy được hoàn toàn
các chức năng của mình, vẫn chưa đem tiếng nói của người dân
đến các cấp
chính quyền. Tuy nhiên, việc làng nghề phát triển theo hướng
kết hợp sản xuất với
du lịch cũng đã mang lại những lợi ích thiết thực thúc đẩy sự
phát triển của làng
nghề. Đồng thời để xây dựng hình ảnh đẹp của làng nghề trong
mắt du khách nên
vấn đề vệ sinh khu phố trên địa bàn Phường khá tốt. Trong
tương lai hiệp hội làng
nghề cần phát huy thêm vai trò của mình nhằm khuyến khích
người dân chú trọng
hơn vấn đề bảo vệ môi trường.
2.4.2.2 Xây dựng cụm
công nghiệpVạn Phúc:
UBND tỉnh Hà Tây đã ra quyết định số 225/2005/QĐ-UB ngày
10/3/2005
về việc quy hoạch các cụm điểm công nghiệp làng nghề trên địa
bàn thành phố
Hà Đông. Trong đó
đang dự kiến thực hiện triển khai dự án quy hoạch diện tích
13,9ha cho khu vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp làng nghề Vạn
Phúc bao gồm
quy hoạch khu vực sản xuất và tiến hành tẩy, nhuộm tập trung
để tiện xử lý nước
thải. Dự án này đã được Phòng Tài nguyên môi trường thành phố
lập và phê
duyệt cáo đánh giá tác động môi trường. Hiện nay, đề án đã
triển khai đi vào
hoạt động. Tuy nhiên, hiện nay trên địa bàn Hà Tây thì ô nhiễm
tại các cụm điểm
công nghiệp đang là thực trạng đáng báo động. Liệu cụm công
nghiệp làng nghề
Vạn Phúc khi đi vào vận hành có giữ được những cam kết được
đề ra trong báo
cáo đánh giá tác động môi trường và các cơ quan chức năng có
sự giám sát triệt
để hay không. Trường hợp Nhà máy dệt Hà Đông là một ví dụ, mặc dù báo cáo
đánh giá tác động môi trường của Nhà máy đã được phê duyệt
nhưng công tác
giám sát quá sơ sài, chỉ khi có kiến nghị của người dân về
tình trạng ô nhiễm do
công ty gây ra mới có những giám sát chặt chẽ hơn và hình thức
xử phạt chỉ dừng
lại ở mức cảnh cáo.
2.4.2.3 Huy động sự hỗ
trợ của các tổ chức trong và ngoài nước:
Hiện nay, đã có nhiều dự án, nghiên cứu nhằm cải thiện vấn đề
môi trường
làng nghề Vạn Phúc. Có thể kể đến là chương trình hợp tác giữa
Phòng Tài
nguyên môi trường thành phố Hà Đông và Trung tâm chuyển giao
công nghệ
Nhật Bản (ICETT)
trong khuôn khổ chương trình hợp tác môi trường của Châu
Á vào năm 2004. Chương trình đã thông qua hoạt động: Xây dựng
điểm phân
loại rác tại nguồn tại Phường Vạn Phúc (do Công ty môi trường
đô thị trực tiếp
triển khai). Dự án được tiến hành trong hai năm: UBND Phường
Vạn Phúc và
Công ty Môi trường đô thị Hà Đông đã phát hành 3000 tờ rơi,
lắp đặt 20 bảng
hiệu kính tuyên truyền trong khu vực làng nghề. Trang bị
2625 kg túi nilon (màu
xanh và màu đen) để đựng rác sau khi phân loại. Mỗi hộ gia
đình được phát
0,3kg (bao gồm 2 loại) và đã phân cho 1567hộ và đặt 07 trạm
trung chuyển tại
07 khu dân cư để thu gom rác. Sau khi triển khai dự án,
chính quyền chủ động
tuyên truyền thường xuyên trên hệ thống loa truyền thanh của
Phường, đồng thời
thường xuyên tổ chức kiểm tra việc phân loại rác tại từng hộ
gia đình. Địa
phương lấy đội ngũ nòng cốt là Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên,
kết hợp ra quân
cùng đội 3 của Công ty Môi trường – Đô thị, nhân dân phường
tổng vệ sinh làm
sạch đẹp môi trường và đồng thời mỗi người dân là những
tuyên truyền viên tích
cực cho phong trào “Toàn dân tích cực hưởng ứng và làm tốt
việc phân loại rác
thải tại gia đình”. Sau hai năm thực hiện dự án đã đạt được
một số kết quả. Ý
thức người dân trong khu vực triển khai dự án đã có chuyển
biến, khối lượng rác
được phân loại có thành phần 87,05% là rác chôn lấp; 12,05%
là rác tái chế. Tuy
nhiên, việc thực hiện chỉ tiến hành trong phạm vi vùng dự án
và không tạo ra
được ảnh hưởng đối với khu vực dân cư xung quanh. Khi được hỏi
về dự án
phân loại rác tại nguồn tại làng nghề Vạn Phúc ông Nguyễn Hữu
Chỉnh -Chủ
tịch hiệp hội làng nghề cho biết hoàn toàn không biết đến vấn
đề này. Đồng thời
việc thực hiện chỉ tiến hành trong thời gian dự án diễn ra
(2 năm), sau đó mọi
việc đâu lại vào đấy. Có thể nói việc thực hiện phân loại
rác tại nguồn được thực
hiện chỉ coi trọng về mặt hình thức mà chưa hướng đến mục tiêu
lâu dài.
Ngoài ra trong những năm gần đây làng nghề Vạn Phúc cũng đã
nhận được
sự hỗ trợ của tổ chức JICA (Nhật Bản) với chương trình
nghiên cứu xử lý ô
nhiễm làng nghề, bằng cách đặt thử nghiệm một số thiết bị xử
lý nhỏ tại các gia
đình để giảm ô nhiễm môi trường do sử dụng chất tẩy, nhuộm,
nhưng hiệu quả
không cao. Các cán bộ Khoa Hóa, Trường đại học Khoa học tự
nhiên (Đại học
Quốc gia Hà Nội) cũng tiến hành nghiên cứu, lắp đặt một thiết
bị tương đối lớn
để xử lý nước thải bằng phương pháp vi sinh vật, thử nghiệm
trong hơn 8 tháng,
cũng không cho kết quả khả quan vì nước thải chảy khắp cả
làng. Đề tài nghiên
cứu có hiệu quả (nước thải sau xử lý trong, sạch) nhưng hiệu
suất không cao.
Có thể nói nhận được sự hỗ trợ từ các tổ chức phi Chính phủ
(NGOs)là điều
thuận lợi trong công tác QLMT. Các tổ chức này hoạt động vì
mục tiêu phi lợi
nhuận. Mục tiêu của NGOs là nâng cao chất lượng sống của con
người. Vấn đề
môi trường làng nghề vốn là một trong những mối quan tâm của
NGOs, họ sẵn
sàng đầu tư rất nhiều tiền vào nhằm cải thiện chất lượng môi
trường làng nghề.
Tuy nhiên, các tổ chức này cũng đòi hỏi tính hiệu quả từ những
đầu tư của họ.
Trong khi đó, việc giải quyết vấn đề môi trường lại đang là
một thách thức với
chúng ta. Nhiều chương trình, dự án đã được đưa ra nhưng việc
thực hiện lại
không đạt hiệu quả hoặc chỉ mang tính hình thức. Điều này đã
khiến nhiều cơ
hội bị bỏ qua. Đối với khu vực Phường Vạn Phúc, nếu các hộ
gia đình sản xuất
tập trung, có khu nước thải tập trung có lẽ đã nhận được những
hỗ trợ từ ICETT,
JICA trong việc xây dựng các thiết bị nhằm xử lý nước thải của
làng nghề, để
cho nước thải do làng nghề Vạn Phúc thải ra không quá gây ô
nhiễm cho môi
trường.
2.4.2.4 Thành lập tổ
thu gom rác tự quản:
Trước khi ký hợp đồng với Công ty Môi trường đô thị tại một
số thôn tại
Phường Vạn Phúc đã tự tổ chức tổ thu gom rác với mô hình đơn
giản
Sơ đồ 2.3 Mô hình tổ
thu gom rác tự quản tại Vạn Phúc
Mỗi thôn có một đội vệ sinh có từ 5 – 8 người. Việc lựa chọn
các đội vệ
sinh sẽ dựa vào hình thức đấu thầu, đội vệ sinh nào có mức
giá phù hợp nhất sẽ
được lựa chọn. Hợp tác xã và Trưởng thôn phối hợp làm công
tác quản lý đội vệ
sinh và thu phí vệ sinhcủa các hộ dân. Tiền thu phí được
dùng vào việc mua sắm
và sửa chữa các loại dụng cụ thu gom và chi trả cho nhân
công làm nhiệm vụ thu
gom rác. Tiền phí được tính dựa trên tổng mức đầu tư dụng cụ
và trả tiền công
cho từng đội thu gom chia đều cho các hộ gia đình trong
thôn. Do đó mức thu
phí có thể dao động từ 4.000 -5.000đồng/hộ/tháng. Việc thu
gom của các tổ vệ
sinh chịu sự giám sát của Hợp tác xã, Trưởng thôn và các tổ
chức đoàn thể và
người dân trong thôn. Cuối mỗi năm lại có các cuộc họp nhằm
đánh giá hoạt
động của tổ vệ sinh và xem xét việc có thuê tiếp tổ vệ sinh
đó hay không. Rác
sau khi thu gom được tập kết về đúng nơi quy định. Trước
đây, khi lượng rác
không lớn thường được xử bằng cách chôn lấp tại chỗ. Tuy
nhiên, với sự phát
triển của làng nghề khối lượng rác ngày càng lớn, các địa điểm
tập kết rác ngày
càng ô nhiễm. Các thôn đã thuê Công ty môi trường đô thị về
thu gom lượng rác
tồn này, dần dần việc thu gom được giao khoán hẳn cho công
ty môi trường đô
thị. Nhưng theo đánh giá của người dân thì việc tự tổ chức thành
các đội thu gom
hiệu quả hơn, đường làng ngõ phố sạch đẹp hơn. Vậy nên chăng
việc tiếp tục xây
dựng lại các tổ thu gom rác tự quản đồng thời phối hợp với
công ty môi trường
đô thị nhằm xử lý lượng rác sau khi đã thu gom.
Rác thải từ các hộ
gia đình
Thu gom vận chuyển
bằng xe thô sơ
Bãi rác quy
định
Ngoài ra, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên thường tổ chức vận động
các phong
trào xây dựng gia đình văn hóa, xây dựng nếp sống lành mạnh,
tổ chức các buổi
dọn vệ sinh khu vực lối xóm.
Người dân có trách nhiệm phát hiện và tố giác các hành vi
làm ảnh hưởng
mỹ quan đường phố như đổ rác bừa bãi, đồng thời có thể báo
cáo với các cơ
quan chính quyền về các hành vi gây ô nhiễm của các cơ sở sản
xuất kinh doanh.