QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO VỀ NHÂN
SINH QUAN
·
Khổ đế:
Chân lí về sự khổ, cho
rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính chất khổ não, không trọn vẹn, cuộc đời con
người là một bể khổ. Phật xác nhận đặc tướng của cuộc đời là vô thường, vô
ngã và vì vậy mà con người phải chịu khổ. Có 8 nỗi khổ là : sinh khổ, lão
khổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ biệt khổ (yêu thương nhau phải xa nhau), oán tăng
hội (ghét nhau phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn mà không đạt được) và
ngũ thụ uẩn (do 5 yếu tố tạo nên con người).
Như vây, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc của hoàn
cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý về bản chất. Về phương triết học, khổ đau
là một thực tại như thực đối với con người. khổ đế là một chân lý khách quan
hiện thực. khổ hay hình thái bất an là kết quả hàng lọat nhân duyên được tạo
tác từ tâm thức. Như vậy tri nhân thực tại là một cách trực tiếp đi vào soi
sáng mọi hình thái khổ đau của con người. Để thấu hiểu triệt để cái căn nguyên
của khổ đau, con người không thể dừng lại ở sự thật của đau khổ, hay quay mặt
chạy trốn, mà phải đi vào soi sáng cái bản chất nội tại của nó.
Đạo Phật cho rằng đời
là bể khổ, nỗi đau khổ là vô tận, là tuyệt đối. Do đó, con người ở đâu, làm gì
cũng khổ. Cuộc đời là đau khổ không còn tồn tại nào khác. Ngay cả cái chết cũng
không chấm dứt sự khổ mà là tiếp tục sự khổ mới. Phật ví sự khổ của con người
bằng hình ảnh: “Nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước biển”.
·
Nhân đế (hay Tập đế):
là triết lý về sự phát
sinh, nguyên nhân gây ra sự khổ. “Tập” là tụ hợp, kết tập lại. Nguyên nhân của
khổ là sự ham muốn, tìm sự thoả mãn dục vọng, thoả mãn được trở thành, thoả mãn
được hoại diệt… Các loại ham muốn này là gốc của luân hồi. Đạo Phật cho rằng
nguyên nhân sâu xa của sự khổ, phiền não là do “thập nhị nhân
duyên”, tức 12 nhân duyên tạo ra chu trình khép kín trong mỗi con
người. 12 nhân duyên gồm:
1. Vô minh (không
sáng suốt): đồng nghĩa với mê tối, ít hiểu biết, không sáng suốt. Không hiểu
được đời là bể khổ, không tìm ra nguyên nhân và con đường thoát khổ. Trong mười
hai nhân duyên, vô minh là căn bản. Nếu không thấu hiểu Tứ diệu đế cũng được
gọi là Vô minh.
2. Duyên
hành: là ý muốn thúc đẩy hành động.
3. Duyên
thức: tâm từ trong sáng trở nên u tối.
4. Duyên
danh sắc: sự hội tụ các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ
quan cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
5. Duyên
lục nhập: là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác
quan cảm giác, lúc đó thân sẽ sinh ra sáu cửa là: nhãn, nhĩ, tỳ, thiệt, thân để
thiêu hủy, đón nhận.
6. Duyên
xúc: là sự tiếp xúc của thế giới xung quanh sinh ra cảm giác. Đó là
sắc, thinh, hương vị, xúc và pháp khi tiếp xúc, đụng chạm vào.
7. Duyên
thụ: là sự cảm thụ, sự nhận thức khi thế giới bên ngoài tiếp xúc với
lục căn sinh ra cảm giác.
8. Duyên ái:
là yêu thích mà nảy sinh ham muốn, dục vọng trước sự tác động của thế giới bên
ngoài.
9. Duyên
thủ: do yêu thích quyến luyến, không chịu xa lìa, rồi muốn chiếm lấy,
giữ lấy không chịu buông ra.
10. Duyên
hữu: cố để dành, tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.
11. Duyên
sinh: sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
12. Duyên
lão tử: khi đã sinh thì xác thân phải tiêu hoại mỏi mòn, trẻ rồi già,
ốm đau rồi chết.
Thập nhị nhân duyên có
nhiều cách giải thích khác nhau nhưng nhìn chung đều cho rằng chúng có quan hệ
mật thiết với nhau, cái này là nhân, làm duyên cho cái kia, cái này là quả của
cái trước, đồng thời là nhân cho cái sau. Cũng có lời giải thích là 12 yếu tố
tích luỹ đưa đến cái khổ sinh tử hiện tại mà yếu tố căn đế là ái và thủ, nghĩa
là tham lam, ích kỷ, còn gọi là ngã chấp. Mười hai nguyên nhân và kết quả nối
tiếp nhau tạo ra cái vòng lẩn quẩn của nổi khổ đau nhân loại.
Nguyên nhân sâu hơn và
căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không thấy rõ bản chất của sự vật
hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi, đều vô thường và chuyển biến, không
có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong chúng. Chúng ta có thể nhận thấy
một cách rõ ràng, khổ hay không là do lòng mình. Hay nói cách khác, tùy theo
cách nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà có khổ hay không. Nếu không bị sự
chấp ngã và dục vọng, vị kỹ hay phiền não khuấy động, chi phối, ngự trị trong
tâm thì cuộc đời đầy an lạc hạnh phúc.
·
Diệt đế:
là chân lý về diệt
khổ. Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ điều có thể tiêu diệt được để đạt tới trạng
thái “niết bàn”. Một khi gốc của mọi tham ái được tận diệt thì sự khổ cũng được
tận diệt. muốn diệt khổ phải đi ngược lại 12 nhân duyên, bắt đầu từ diệt
trừ vô minh.
Vô minh bị diệt, trí
tuệ được bừng sáng, hiểu rõ được bản chất tồn tại, thực tướng của vũ trụ là con
người, không còn tham dục và kéo theo những hành động tạo nghiệp nữa, tức là
thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Nói cách khác diệt trừ được vô minh, tham dục
thì hoạt động ngũ uẩn dừng lại, tu đến niết bàn, tịch diệt khi ấy mới hết luân
hồi sinh tử.
Phật Giáo cho rằng,
một khi người ta đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp thủ, thì những nỗi lo âu,
sợi hải, bất an giảm dần, thâm tâm của bạn trở nên thanh thản, đầu óc tĩnh táo
hơn; lúc đó nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản hơn, rộng lượng hơn. Đó là một
hình thức hạnh phúc, cũng nhờ vậy tâm trí không bị chi phối bởi những tư tưởng
chấp thủ, nhờ không bị nung núng bởi các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng sợ hải mà
tâm lý của bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả năng nhận thức sự vật hiện tượng
sâu sắc hơn, chính xác hơn, thâm tâm được chuyển hóa, thái độ ứng xử của bạn
với mọi người xung quanh rộng lượng và bao dung hơn. Tùy vào khả năng giảm
thiểu lòng tham, vô minh đến mức độ nào thì đời sống của bạn sẽ tăng phần hạnh
phúc đến mức độ ấy.
·
Ðạo đế:
là chân lý về
con đường dẫn đến diệt khổ. Đây là con đường tu đạo để hoàn thiện đạo đức cá
nhân. Khổ được giải thích là xuất phát Thập nhị nhân duyên, và một khi dứt được
những nguyên nhân đó thì ta có thể thoát khỏi vòng sinh tử. Chấm dứt luân hồi,
vòng sinh tử đồng nghĩa với việc chứng ngộ niết bàn. Có 8 con đường chân chính
để đạt sự diệt khổ dẫn đến niết bàn gọi là “Bát chính đạo”. Bát chính đạo bao
gồm:
1.Chính kiến: hiểu
biết đúng đắn và gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ diệu đế và giáo lí vô
ngã.
2.Chính tư duy: suy
nghĩ luôn có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý nghĩa của bốn chân lí một cách
không sai lầm.
3.Chính ngữ: nói
năng phải đúng đắn, không nói dối hay nói phù phiếm.
4.Chính nghiệp: giữ
nghiệp đúng đắn, tránh phạm giới luật, không làm việc xấu, nên làm việc thiện.
5.Chính mệnh: giữ
ngăn dục vọng đúng đắn, tránh các nghề nghiệp liên quan đến sát sinh.
6.Chính tinh
tiến: cố gắng nổ lực đúng hướng không biết mệt mỏi để phát triển
nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu.
7.Chính niệm: tâm
niệm luôn tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát, luôn tỉnh giác trên ba phương
diện Thân, Khẩu, Ý.
8.Chính định: kiên
định, tập trung tư tưởng cao độ suy nghĩ về tứ điệu đế, vô ngã, vô thường, tâm
ý đạt bốn định xuất thế gian .
Theo con đường bát
chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ vô minh, đạt tới sự giải thoát,
nhập vào niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng suốt, chấm dứt sinh tử
luân hồi.
Ngoài ra Phật giáo còn
đưa ra 5 đều nhằm răn đe đem lại lợi ích cho con người và xã hội. Chúng bao
gồm: bất sát (không sát sinh), bất dâm (không dâm dục), bất vọng ngữ (không nói
năng thô tục, bậy bạ), bất âm tửu (không rượu trà) và bất đạo (không trộm
cướp).
Như vậy, Phật giáo
nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần, có yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng của
thế giới. Phật giáo khuyên con người suy nghỉ thiện và làm việc thiện nhằm góp
phần hoàn thiện đạo đức cá nhân. Tuy nhiên trong triết lý nhân sinh và con
đường giải phóng của phật giáo vẫn mang nặng tính chất bi quan không
tưởng và duy tâm về xã hội. Và những tư tưởng xã hội phật giáo đã phản
ánh thực trạng xã hội đẳng cấp khắc nghiệt của xã hội Ấn Độ cổ – trung đại và
nêu lên ước vọng giải thoát nổi bi kịch cho con người lúc đó. Phật giáo cũng
nói lên được tự do bình đẳng trong xã hội nhưng triết lý nhân sinh vẫn còn mang
nặng tính chất bi quan không tưởng và duy tâm về xã hội.