Môi trường nước không tồn tại cô lập với môi trường khác


Môi trường nước không tồn tại cô lập với môi trường khác, nó luôn tiếp xúc trực tiếp với không khí, đất và sinh quyển. Phản ứng hóa học trong môi trường nước có rất nhiều nét đặc thù khi so sánh với cùng phản ứng đó trong phòng thí nghiệm hay trong sản xuất công nghiệp. Nguyên nhân của sự khác biệt đó là tính không cân bằng nhiệt động của hệ do đó là một “hệ mở” tiếp xúc trực tiếp với khí quyển, thạch quyển, sinh quyển và số tạp chất trong nước cực kỳ đa dạng. Giữa chúng luôn có sự trao đổi chất, năng l ượng (nhiệt, quang, cơ năng), xảy ra sôi động giữa bề mặt phân cách pha. Ngay trong lòng nước cũng xảy ra các quá trình xa lạ với quy luật cân bằng hóa học: quá trình giảm entropi, sự hình thành và phát triển của các vi sinh vật. Nước là một hợp chất liên quan trực tiếp và rộng rãi đến sự sống trên trái đất, là cơ sở của sự sống đối với mọi sinh vật. Đối với thế giới vô sinh, nước là thành phần tham gia rộng rãi vào các phản ứng hóa sinh, nước là dung môi và môi trường tàng trữ các điều kiện để thúc đẩy hay kìm hãm các quá trình hóa sinh. Đối với con người, nước là nguyên liệu chiếm tỷ trọng lớn nhất. Nước rất cần thiết cho hoạt động sống của con người cũng như các sinh vật. Con người có thể không ăn trong nhiều ngày mà vẫn sống, nhưng sẽ bị chết chỉ sau ít ngày (khoảng 3 ngày) nhịn khát, vì cơ thể người có khoảng từ 70 – 75 % là nước, nước mất 12% nước cơ thể sẽ bị hôn mê và có thể chết. Con người cần nước ngọt cho ăn uống, sinh hoạt hàng ngày và cho sản xuất. Mỗi người một ngày ăn uống chỉ cần 2,5 lít nước, nhưng tính chung cho cả nước sinh hoạt thì ở các nước phương Tây mỗi người cần khoảng 300 lít nước mỗi ngày. Với các nước đang phát triển, số lượng nước đó thường được dùng cho một gia đình 5 – 6 người. Nhu cầu nước cho sản xuất công nghiệp và nhất là nông nghiệp rất lớn. Để khai thác một tấn dầu mỏ cần có 10 m 3 nước , muốn chế tạo một tấn sợi tổng hợp cần có 5600 m3 nước, một trung tâm nhiệt điện hiện đại với công suất 1 triệu kW cần đến 1,2 – 1,6 tỉ m3 nước trong một năm. Tóm lại, nước có một vai trò quan trọng không thể thiếu được cho sự sống tồn tại trên trái đất, là máu sinh học của trái đất nhưng nước cũng là nguồn gây tử vong cho con người. Vì vậy nói đến nước là nói đến việc bảo vệ rừng, trồng rừng, phát triển để tái tạo nguồn nước, hạn chế cường độ dòng lũ lụt, để sử dụng nguồn nước làm thủy điện, để cung cấp nước sạch. Phải sử dụng hợp lý nước sinh hoạt và sản xuất đi đôi với việc chống ô nhiễm nguồn nước đã khai thác sử dụng, phải xử lý nước thải sản xuất và sinh hoạt.
. Thành phần hóa sinh của nước. Thành phần hóa học của nước thiên nhiên Nước tự nhiên chiếm 1% tổng lượng nước trên trái đất, gồm nước chứa ở sông, hồ, nước bề mặt, nước ngầm. Thành phần của nước tự nhiên có hòa tan các chất rắn, lỏng, khí phụ thuộc vào đ ịa hình mà nó đi. Các nguồn nước tự nhiên không nối liền với nhau nên không có sự hòa trộn để có thành phần khá đồng đều như nước biển và thành phần của chúng lại có thể thay đổi ngay trên dòng. Nước biển trong các đại dương được nối với nhau nên thành phần của nước gần như nhau. Nước biển chứa hàm lượng muối tan lớn gấp khoảng 2000 lần so với các nguồn nước bề mặt. Nước biển có thể gọi là dung dịch chứa muối NaCl 0.5 M, MgSO4 0.05 M và vi lượng của tất cả các chất trong toàn cầu. Các chất rắn hòa tan trong nước chủ yếu là các muối hòa tan, hàm lượng NaCl trong nước quyết định độ mặn của nước. Các khí hòa tan trong nước: nói chung các chất khí có trong khí quyển đều có mặt trong nước do kết quả của hai quá trình cơ bản là khuếch tán và đối lưu. Trong đó khí CO2 và O2 trong nước có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình quang hợp và hô hấp của các sinh vật sống dưới nước. - Oxi trong nước: oxi là loại khí ít tan trong nước và không tác dụng với nước về mặt hóa học, nhưng oxi có ý nghĩa l ớn đối với quá trình tự làm sạch của nước. Độ hòa tan của oxi trong nước phụ thuộc nhiều vào nhiệt độ và áp suất môi trường. Mức độ bão hòa oxi hòa tan trong nước ngọt vào khoảng 14 – 15 ppm (0oC, 1 atm), 8 ppm (25oC, 1 atm), 7 ppm (35oC, 1 atm). Nồng độ oxi giảm dần theo chiều sâu của lớp nước. Nếu nước bị ô nhiễm bởi các chất hữu cơ có khả năng oxi hóa bằng phản ứng sinh học với oxi thì hàm lượng oxi trong nước còn giảm do bị tiêu hoa bởi hoạt động của các vi khuẩn. Khi lượng oxi trong nước quá ít < 2 ppm, các vi khuẩn sẽ lấy oxi của các chất chứa oxi để oxi hóa: SO 42- à H2S à S… nước vùng đó trở thành vùng yếm khí. - Khí cacbonic trong nước: khí cacbonic hòa tan trong nước tan ra các ion HCO3-, CO32- và quá trình chuyển hóa CO32- thành CO2 trong nước đóng vai trò rất quan trọng cho các quá trình cân bằng hóa học trong nước. Quá trình đó, không chỉ làm ổn định pH trong nước mà còn ảnh hưởng tới sự tạo phức với các ion kim loại của nước, tham gia vào hoạt động của thực vật và lắng đọng các trầm tích cacbanat trong nước. Các phản ứng của khí CO2 vào nước: Khi pH >= 8.3, CO2 trong nước chủ yếu tồn tại ở dạng CO32- ; khi pH
Quá trình này dẫn tới sự thay đổi pH của môi trường. - Các chất hữu cơ trong nước: Dựa vào khả năng phân hủy của vi sinh vật có thể chia làm hai nhóm: + Các chất hữu cơ dễ bị phân hủy sinh học: các chất đường, protein, chất béo, dầu mỡ động thực vật, vi sinh vật phân hủy tạo ra khí cacbonic và nước. + Các chất hữu cơ khó bị phân hủy sinh học: hợp chất clo hữu cơ, andrin, policlor biphenyl (PCB), hợp chất đa vòng ngưng tụ (pyren, naphtalen, antraxen, đioxin…) là những hợp chất khá bền trong môi trường nước và có độc tính cao cho động thực vật và con người. 2.2 Thành phần sinh học của nước Trong môi trường nước, các sinh vật sống (vùng sinh vật – biota) có thể phân loại thành cả sinh vật đẳng tuyến (autotropic) và sinh vật dị tuyến (heterotropic). Vùng sinh vật đẳng tuyến sử dụng năng lượng mặt trời hoặc năng lượng hóa học để biến các vật chất đơn giản không có sự sống thành các phân tử sống có chứa các sinh vật sống. Các sinh vật sống đẳng tuyến dùng năng lượng mặt trời để tổng hợp các hợp chất hữu cơ từ các chất vô cơ được gọi là các sinh vật sản xuất (producer). Các sinh vật dị tuyến sử dụng các chất hữu cơ do các sinh vật đẳng tuyến tạo ra như nguồn năng lượng và nguyên liệu cho quá trình tổng hợp chất hữu cơ sinh học (biomass) của chúng. Các sinh vật phân hủy là một phân lớp của sinh vật dị tuyến và bao gồm chủ yếu các loại vi khuẩn, nấm; các sinh vật này phân hủy chất sinh học thành các hợp chất đơn giản mà các hợp chất này trước hết sẽ được các sinh vật đẳng tuyến xử lí. Các vi sinh vật trong nước là một nhóm rất đa dạng của sinh vật có khả năng tồn tại như các đơn bào vốn chỉ có thể quan sát thấy qua kính hiển vi. Các vi sinh vật, đơn bào nhỏ bé chỉ có thể nhìn thấy qua kính hiển vi bao gồm vi khuẩn, nấm và tảo đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong môi trường nước với những lý do sau: + Thông qua khả năng xử lý cacbon vô cơ, tảo và các vi khuẩn quang hợp là các sinh vật sản xuất chủ yếu sinh khối, cung cấp phần còn lại của chuỗi thức ăn trong môi trường nước. + Là các tác nhân xúc tác cho các phản ứng hóa học dưới nước, vi khuẩn làm trung gian cho hầu hết các chu trình oxi hóa – khử trong nước. + Bằng việc phân hủy sinh khối và các chất khoáng hóa quan trọng, đặc biệt là nitơ và photpho, các vi sinh vật dưới nước đóng vai trò quan trọng trong chu trình dinh dưỡng.
 Các vi sinh vật dưới nước cũng rất cần thiết cho các chu trình sinh hóa. + Các vi khuẩn dưới nước đóng vai trò quan trọng trong việc phân hủy và giải độc rất nhiều chất ô nhiễm (xenobiotic) trong môi trường thủy quyển. Theo quan điểm của hóa học môi trường, kích thước nhỏ bé của các vi sinh vật đặc biệt quan trọng, bởi vì kích thước này cho phép các vi khuẩn trao đổi nhanh các chất dinh dưỡng và các sản phẩm metan với môi trường xung quanh, kết quả là tạo ra nhiều phản ứng metan. Việc tăng trưởng theo cấp số nhân của các đơn bào bằng quá trình sinh sản nhân đôi ở pha lỏng, cho phép các vi sinh vật nhân lên nhanh chóng trên các chất nền hóa học môi trường như là các hợp chất hữu cơ có thể phân hủy được. Các vi sinh vật đóng vai trò như các chất xúc tác sống cho phép hàng loạt các chu trình hóa học diễn ra trong môi trường nước và đất. Phần lớn các phản ứng hóa học diễn ra trong đất và nước đều là các phản ứng liên quan đến các chất hữu cơ và các quá trình oxi hóa – khử xuất hiện thông qua khâu trung gian có xúc tác vi khuẩn. Tảo là vi sinh vật sản xuất chủ yếu các chất hữu cơ sinh học trong nước. Tảo là vi sinh vật đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các chất cặn và chất khoáng; chúng cũng có vai trò cực kỳ quan trọng trong hệ thống xử lý nước thải thứ cấp. Các vi sinh vật phải được loại bỏ khỏi nguồn nước dể tạo nguồn nước sạch cho con người. Tảo có thể được coi là các vi sinh vật siêu nhỏ tồn tại trên các vật chất dinh dưỡng vô cơ và sản sinh ra chất hữu cơ từ cacbondioxit thông qua quá trình quang hợp. Ở dạng rất đơn giản, quá trình sản xuất ra các chất hữu cơ thông qua quá trình quang hợp của tảo được mô tả bằng phản ứng sau: CO2 + H2O à {CH2O} + O2 Trong đó, nhóm {CH2O} là một đơn vị cacbohydrat. Nấm là các vi sinh vật không quang hợp. Cấu trúc của nấm có nhiều loại và thường được phân loại theo cấu trúc sợi. Nấm là các vi sinh vật ưa khí, thường chịu được môi trường nhiều axit và có nồng độ các ion kim loại nặng cao hơn vi khuẩn. Mặc dù nấm không phát triển mạnh trong môi trường nước nhưng chúng đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định thành phần của nước tự nhiên và nước thải do một lượng lớn các chất do nấm phân hủy từ xenlulose trong gỗ và các loại thực vật khác thâm nhập vào nguồn nước. Để làm được điều này các tế bào nấm tiết ra enzim ngoại bào xenlulaza. Một tác dụng phụ quan trọng là đối với môi trường của việc phân hủy các chất từ thực vật của nấm là các chất mùn. . Những đặc điểm của nước
Nước là một trong số các chất lỏng dị thường nhất. Khối lượng phân tử của nước ở 20oC nhỏ hơn nhiều so với bất kỳ chất lỏng nào khác ở cùng nhiệt dọ này (trừ HF). Đây là một tính chất dị thường vì ở điểm sôi xu hướng các phan tử chất lỏng muốn thoát ra để chuyển động tự do trong không gian, tức là dạng khí, nước lại bằng xu hướng của phân tử muốn tạo thành chất lỏng. Xu hướng chuyển thành dạng khí có liên quan chủ yếu đến khối lượng phân tử: nếu các phân tử chất lỏng đều nhẹ hơn thì chúng có thể chuyển động trong không gian dễ dàng hơn các phân tử nặng hơn ở một nhiệt độ nào đó. Xu hướng các phân tử ở dạng khí tạo thành pha lỏng có liên quan chủ yếu đến tương tác giữa các phân tử với nhau trong pha lỏng. Khối lượng của phân tử nước bằng 18 nên phân tử nước là một phân tử nhẹ, nhưng điểm sôi của nước là 100 oC. Nếu so sánh nước với metan trên quan điểm này thì khối lượng phân tử của metan bằng 16 nhưng điểm sôi chỉ có – 161,5oC. Còn nếu so sánh với neon có khối lượng phân tử bằng 20 nhưng điểm sôi là – 245,9oC. Những số liệu này cho thấy điểm sôi của nước cao hơn rất nhiều so với các chất có khối lượng phân tử tương đương. Khi nước đá nóng chảy thành nước thì thể tích giảm và tiếp tục giảm đến khi có nhiệt độ bằng 3,98oC. Ta biết rất rõ là nước đá nhẹ hơn nước. Hiện tượng này là rất khác với đa số các chất rắn khác vì thường các chất rắn đều nặng hơn dạng lỏng và bị chìm vào dạng lỏng trong quá trình nóng chảy. Nhiệt dung riêng của nước cũng lớn hơn rất nhiều so với nhiều chất lỏng khác. Nước có nhiệt nóng chảy và nhiệt hóa hơi cũng rất lớn. Ngoài ra nước có hằng số điện môi lớn, có khả năng hòa tan được nhiều chất điện li hơn so với nhiều dung môi khác. Nước có được những tính chất vật lý đặc biệt đó là do giữa các phân tử nước tồn tại một loại liên kết đặc biệt, được gọi là liên kết hydro. Phân tử nước H2O là phân tử phân cực cao. Các phân tử không tồn tại riêng rẽ mà tạo thành từng nhóm phân tử bởi liên kết hidro. Mỗi phân tử nước đá được bao quanh bởi 4 phân tử nước đá khác tạo thành cấu trúc hình tứ diện. 4. Sự tạo phức trong nước tự nhiên và nước thải Các ion kim loại trong nước thường liên kết với các phân tử nước dưới dạng các ion hydrat biểu thị bằng công thức chung là M(H2O)xn+, để đơn giản H2O thường được bỏ qua. Các phân tử khác nước có thể liên kết với các ion kim loại mạnh hơn phân tử nước. Đặc biệt, một ion kim loại trong nước có thể kết hợp với một ion hoặc một hợp chất có cung cấp các electron cho ion kim loại. Những hợp chất như trên được gọi là chất cho điện tử, hay base 7
lewis. Là một phối tử, nó liên kết với một ion kim loại để tạo nên một phức hợp hay một hợp chất phối trí. Các phức chất với kim loại đều ảnh hưởng tới tính chất của nước. Có thể ở nồng độ thấp (vi lượng) chúng có lợi cho dinh dưỡng, song ở nồng độ cao chúng lại gây đọc trong nước. Các phức với kim loại còn ảnh hưởng tới quá trình oxy hóa – khử, cân bằng hóa học và cân bằng sinh học trong nước. Ở đây người ta thường quan tâm đến các phức chất của axit humic và axit fulvic. Các phức này đã được các nhà hóa học phát hiện từ năm 1800, nhưng cấu trúc và đặc tính hóa học đến nay vẫn chưa được xác định chính xác. Chúng được tạo nên do quá trình phân hủy thực vật, xuất hiện như một chất lắng trong đầm lầy hoặc lớp trầm tích của nước. Sự tạo phức bởi các chất humic (mùn) Nhóm tạo các hợp chất quan trọng nhất có trong tự nhiên là các chất mùn. Các chất mùn là những hợp chất không bị thoái biến trong quá trình phân hủy các thực vật, là các chất lắng đọng trong đất, đáy các đầm lầy, than bùn, than non, hay ở bất cứ nơi nào có chứa lượng lớn thực vật bị thối rửa. Các chất này thường được phân loại theo độ hòa tan. Một hợp chất có chứa mùn được tách ra bằng base mạnh và dụng dịch còn lại được axit hóa, sẽ cho các sản phẩm sao: + Bã thực vật không thể tách rời được gọi là humin + Một chất kết tủa từ phần tách ra bị axit hóa, được gọi là axit humic. + Một hợp chất hữu cơ còn lại trong dung dịch bị axit hóa gọi là axit fulvic. Do tính chất phức hợp, hút ẩm, axit và base mà cả hợp chất tan lẫn không tan đều có ảnh hưởng lớn đến tính chất của nước. Thông thường axit fulvic tan trong nước và phát huy ảnh hưởng của mình như các chất tan. Axit humic và humin không và ảnh hưởng đến chất lượng của nước thông qua việc trao đổi, như trao đổi cation hay các chất hữu cơ với nước. Các hợp chất humic là hợp chất cao phân tử, có trọng lượng phân tử lớn. Trọng lượng phân tử dao động từ một vài trăm đối với axit fulvic đến hàng chục ngàn đối với axit humic và các hợp chất humin. Liên kết của các ion kim loại bằng các chất mùn là một trong những tính chất môi trường quan trọng nhất của chất mùn. Liên kết này có thể tồn tại như một chelat giữa một nhóm cacboxyl và một nhóm hydroxyl của phenol. Các chất phức của axit fulvic với kim loại cũng đóng vai trò quan trọng trong môi trường nước tự nhiên. Chúng có thể lưu giữ 8
một số ion kim loại như sắt, các hợp chất màu vàng trong nước được gọi là Gelbstofe và thường gắn liền với sắt tan. Người ta đã đặt biệt chú ý đến các hợp chất mùn sau khi phát hiện ra trihalogenmetan (THM) như clorofom hay dibromclometan trong các nguồn cung cấp nước. Ngày nay người ta thấy rằng, các chất gây ung thư còn nhiều nghi ngờ này có thể được hình thành với sự xuất hiện của các hợp chất mùn trong quá trình tẩy uế nguồn nước uống của các đô thị bằng clo. Các hợp chất mùn tạo ra THM qua phản ứng với clo. Có thể giảm bớt sự hình thành của THM bằng cách loại bỏ càng nhiều càng tốt chất mùn trước khi khử trùng nước bằng clo. Như vậy, dựa vào độ tan của axit humic và axit fulvic người ta phân loại: + Humin là những sản phẩm gốc thực vật không chiết được. + Axit humic là những sản phẩm kết tủa trong quá trình axit hóa. + Axit fulvic là những chất hữu cơ còn lại trong dung dịch axit. Các axit humic và axit fulvic có ảnh hưởng trực tiếp đến tính chất của nước như: tính tạo phức, tính hấp phụ, tính base. Axit humic và axit fulvic là các đại phân tử, có phân tử lượng từ vài ngàn tới 300 ngàn, có cấu trúc không ổn định, chứa đồng thời nhiều nhóm chứa axit yếu: cacbonyl, cacboxyl, hydroxyl, phenol. Một trong những tính chất khá đặc thù của axit humic và fulvic là khả năng tạo phức với kim loại tạo thành hợp chất có đ ộ tan thấp.
. Độ pH Độ pH là một trong những chỉ tiêu cần xác định đối với chất lượng nước. Giá trị đo pH cho phép chúng ta quyết định xử lý nước theo phương pháp thích hợp hoặc điều chỉnh lượng hóa chấ trong quá trình xử lý nước. Sự thay đổi pH trong nước có thể dẫn tới những thay đổi về thành phần các chất trong nước do quá trình hòa tan hoặc kết tủa, hoặc thúc đẩy hoặc ngăn chặn những phản ứng hóa học, sinh học xảy ra trong nước. Xác định pH bằng các máy đo pH. Các máy đo pH hiện nay đều là các máy hiện số. Độ chính xác của các máy này thường là 1% đơn vị pH. 2. Nhiệt độ Nhiệt độ của nước là một chỉ tiêu cần đo khi lấy mẫu nước. Nhiệt độ của nước ảnh hưởng đến độ pH, đến các quá trình sinh hóa xảy ra trong nước. Nhiệt độ của nước phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, thời tiết hay môi trường khu vực. Riêng nhiệt độ của nước ngầm, các lớp 9
nước tầng đáy sâu của hồ… ít phụ thuộc vào môi trường hơn. Nhiệt độ nước thải công nghiệp đặc biệt là nước thải của nhà máy nhiệt điện, nhà máy điện hạt nhân thường cao hơn từ 10 – 25 oC so với nước thường. Nước nóng có thể gây ô nhiễm hoặc có lợi tùy theo mùa và vị trí địa lý. Vùng có khí hậu ôn đới nước nóng có tác dụng xúc tiến sự phát triển của vi sinh vật và các quá trình phân hủy. Nhưng ở những vùng nhiệt đới, nhiệt độ cao của nước ở sông hồ sẽ làm thay đổi quá trình sinh hóa và hóa lý bình thường của hệ sinh thái nước, giảm lượng oxi hòa tan vào nước và tăng nhu cầu oxi của cá lên 2 lần. Một số loài sinh vật không chịu được nhiệt độ cao sẽ chết hoặc phải di chuyển đi nơi khác, nhưng có một số loài khác lại phát triển mạnh ở nhiệt độ thích hợp. Chỉ tiêu nhiệt độ cần đo ngay tại nơi lấy mẫu bằng nhiệt kế hay bằng các máy đo nhiệt độ. 3. Màu sắc Nước sạch trong suốt và không màu. Nếu bề mặt đáy của nước rất lớn ta có cảm giác nước màu xanh nhẹ, đó là do sự hấp thụ chọn lọc các bước sóng nhất định của ánh sáng mặt trời. Nước bẩn của nước là do các chất bẩn trong nước gây nên. Màu sắc của nước ảnh hưởng đến thẩm mỹ khi sử dụng nước, ảnh hưởng đến chất lượng nước khi sử dụng trong sản xuất. Mùa của nước là do những nguyên nhân sau: + Màu của các chất hữu cơ: màu này rất khó xử lý bằng các phương pháp đơn giản. Nước có màu xanh đậm hoặc có váng trắng chứng tỏ trong nước có nhiều chất phú dưỡng hoặc các thực vật nổi phát triển quá mức và sản phẩm phân hủy thực vật đã chết. Sự phân hủy các chất hữu cơ làm xuất hiện axit humic và fulvic hòa tan làm nước có màu vàng. + Các chất vô cơ là những hạt rắn, gây ra màu sắc trong nước. Màu này xử lý đơn giản hơn. Các hợp chất của Fe3+ không tan làm cho nước có màu nâu đỏ. Nước thải sinh hoạt hay nước thải công nghiệp có nhiều màu sắc khác nhau. Thường là màu xám hay màu tối. Khi nước bị ô nhiễm có màu sẽ cản trở sự truyền ánh sáng mặt trời vào nước, làm ảnh hưởng tới hệ sinh thái nước. Nếu là màu do hóa chất gây nên sẽ rất độc đối với sinh vật sống trong nước. 4. Mùi vị Nước sạch không có mùi, vị. Nước có mùi vị khó chịu là nước bị ô nhiễm. Nguyên nhân của sự ô nhiễm là do sản phẩm phân hủy các chất hữu cơ trong nước hoặc do nguồn nước thải có chứa những chất khác nhau, ví dụ: mùi phân C8H5NHCH3, mùi trứng thối 10
H2S, mùi hôi của mercaptan (CH3SH, CH3(CH2)3SH, mùi cá ươn của amin (CH3NH2, (CH3)2NH, (CH3)3N), mùi thịt thối của diamin NH2 – (CH2)4 – NH2… 5. Độ đục Nước tự nhiên sạch thường không chứa các chất rắn lơ lửng nên trong suốt và không màu. Độ đục do các chất lơ lửng gây ra, chúng có kích thước rất khác nhau, từ dạng những hạt keo đến những thể phân tán thô. Những hạt vật chất gây đục thường hấp phụ những kim loại nặng, cùng các vi sinh vật gây bệnh. Nước đục còn ngăn cản quá trình chiếu sáng của mặt trời xuống đáy thủy vực làm giảm quá trình quang hợp và nồng độ oxi hòa tan trong nước. Đơn vị chuẩn của độ đục là sự cản quang bởi 1 mg SiO 2 hòa tan trong 1 lít nước cất gây ra được gọi là 1 đơn vị độ đục. Đo độ đục của nước bằng các máy đo độ đục. Độ đục càng lớn có nghĩa là độ nhiễm bẩn của nước càng cao và phải có biện pháp xử lý thích hợp. 6. Độ mặn Độ mặn của nước là tổng lượng các muối hòa tan trong nước. Mỗi quần thể sinh vật trong nước sẽ thích nghi với một khoảng độ mặn nhất định của nước. Độ mặn thường được ký hiệu là S‰. Độ mặn của nước có thể tính qua hàm lượng Cl- có trong nước biển theo công thức: S‰ = 0.030 + 1.805.[Cl-] Đo độ mặn của nước bằng các máy đo độ mặn. 7. Chất rắn trong nước Gồm hai loại là chất rắn lơ lửng và chất rắn hòa tan. Tổng hai loại chất rắn trên gọi là tổng chất rắn trong nước. Chất rắn lơ lửng: phần chất rắn không bị hòa tan có kích thước tử 0.01 – 0.1 μm như khoáng sét, bùn, than, mùn… Các chất rắn l ơ lửng làm cho nước đục, thay đổi màu sắc và các tính chất khác. Hàm lượng chất rắn lơ lửng được xác định bằng lượng khô của phần chất rắn còn lại trên giấy lọc sợi thủy tinh khi lọc 1 lít nước mẫu qua phễu lọc rồi sấy khô ở 103 – 105 oC tới khi khối lượng không đổi. Đơn vị tính là mg/l. Ngoài ra hàm lượng chất rắn lơ lửng có thể xác định bằng máy quang phổ hấp thụ. Chất rắn hòa tan: mắt thường không thể nhìn thấy được, làm cho nước có mùi, vị khó chịu, đôi khi cũng làm cho nước có màu. Đó là chất khoáng vô cơ, hữu cơ như các muối clorua, cacbonat, nitrat, photphat… Nguồn nước có hàm lượng chất rắn cao không dùng được trong công nghiệp và trong sinh hoạt. 8. Chất rắn bay hơi 11
Hàm lượng chất rắn bay hơi là lượng mất đi khi nung lượng chất rắn huyền phù ở 550oC trong một khoảng thời gian nhất định. Thời gian này phụ thuộc vào loại nước cần xác định (nước thải, bùn, nước uống…). Đơn vị tính là mg/l. Hàm lượng chất rắn bay hơi trong nước thường biểu thị cho hàm lượng chất hữu cơ trong nước. 9. Chất rắn có thể lắng Chất rắn có thể lắng là thể tích phần chất rắn của một lít nước mẫu đã lắng xuống đáy phễu sau một thời gian xác định (khoảng 1 giờ). Đơn vị đo là ml/l. 10. Độ kiềm toàn phần Được định nghĩa là hàm lượng các chất có trong nước có khả năng phản ứng với axit mạnh. Độ kiềm rất quan trọng trong việc xử lý nước và trong môi trường hóa sinh của các loại nước tự nhiên. Thông thường người ta cần phải xác định được nồng độ kiềm để tính toán khối lượng các hóa chất cần thêm vào khi xử lý nước. Nước có tính kiềm cao thường có độ pH cao và chứa lượng chất rắn hòa tan cao. Tính chất này của nước có thể có hại đối với các dụng cụ đun nước, việc sản xuất thức ăn và các hệ thống nước ở thành phố. Độ kiềm có tác dụng như một dung dịch đệm và là nguồn cung cacbon vô cơ, vì vậy góp phần quyết định khả năng của nước trong việc trợ giúp cho sự phát triển của tảo và các loài sinh vật sống dưới nước khác. Các nhà sinh học cũng sử dụng độ kiềm làm thước đo chất lượng của nước. Nhìn chung, các khoáng chất chính quyết định tính kiềm trong nước là ion bicacbonat, ion cacbonat và ion hidroxit. Ngoài ra còn có các hóa chất khác ảnh hưởng đến độ kiềm của nước là ammoniac và các base liên hợp của photphoric, silicic, boric và các axit vô cơ. Cũng cần phải phân biệt giữa độ base cao, đ ược xác định bằng độ pH tăng, và độ kiềm cao xác định bằng khả năng nhận H+. Trong khi pH chỉ cường độ thì độ kiềm chỉ khả năng. Việc dùng phèn nhôm Al2(SO4)3.18H2O làm chất kết tụ là một ví dụ cho tầm quan trọng của tính kiềm trong việc xử lý nước. Ion nhôm hidrat là một axit khi có nước sẽ kết hợp với base tạo ra nhôm hidroxit kết tủa. Phản ứng này khử kiềm trong nước. Đôi khi cũng cần bổ sung thêm kiềm để ngăn chặn việc nước trở nên quá axit. Độ kiềm có đơn vị là CaCO3 mg/l dựa theo phản ứng trung hòa axit. Trọng lượng tương đương của canxi cacbonat bằng ½ trọng lượng theo công thức của nó vì chỉ cần ½ phân tử CaCO 3 để trung hòa một ion H+. Tuy nhiên thể hiện độ kiềm bằng mgCaCO3/l có thể dẫn đến nhầm lẫn với mđương lượng/l là đơn vị thường dùng trong hóa học. 12
Đối với nước tự nhiên, độ kiềm của nước phụ thuộc chủ yếu vào hàm lượng các muối cacbonat, hidrocacbonat của kim loại kiềm và kiềm thổ, trong trường hợp này pH của nước thường >= 8.3. 11. Độ axit Đối với các nguồn nước tự nhiên, độ axit được định nghĩa là hàm lượng của các chất có trong nước có khả năng tham gia phản ứng với kiềm mạnh. Nước axit thường rất ít gặp trừ trường hợp bị ô nhiễm nặng. Độ axit của nước thường do sự có mặt của các axit như: H2PO4-, CO2, H2S, các protein, các axit béo và các ion kim loại có tính axit, đặc biệt là ion Fe 3+. Độ axit khó xác định hơn độ kiềm, lý do là hai hợp chất chủ yếu tác động đến tính axit là CO2 và H2S đều là chất tan dễ bay hơi và biến mất trong mẫu thử. Cất và lưu giữ các mẫu nước đại diện để phân tích của khí này thường rất khó. Thuật ngữ axit vô cơ tự do được dùng cho các axit mạnh trong nước như H2SO4 và HCl. Nước axit trong các hầm mỏ có chứa nhiều axit vô cơ. Trong khi nồng độ axit được xác định bằng việc chuẩn độ với base đến điểm cuối của phenolphthalein(pH = 8.3, khi cả axit mạnh và axit yếu đều được trung hòa), thì axit vô cơ tự do được xác định bằng việc chuẩn độ với base đến điểm cuối methyl da cam (pH = 4.3, khi chỉ có axit mạnh được trung hòa). Độ axit của một số ion hydrat kim loại cũng có thể làm tăng tính axit của nước. Để ngắn gọn, ion H3O+ được viết tắt đơn giản hơn thành H+. Độ axit của nước có nguồn gốc khác nhau do quá trình thủy phân, oxi hóa khoáng vật và chất hữu cơ, hoạt động vi sinh, l ắng đọng từ khí quyển, nước thải từ các hoạt động công nghiệp, sự hòa tan của khí CO2. Trong đó, khí CO2 hòa tan vào nước là nguồn chính đóng góp vào độ axit của nước. 12. Độ cứng của nước Trong các cation có trong hầu hết các hệ thống nước sạch, ion canxi thường có nồng độ cao nhất và có ảnh hưởng lớn nhất đ ối với hóa học môi trường nước, cũng như việc sử dụng và xử lý nước. Tính chất hóa học của canxi, mặc dù khá phức tạp, nhưng vẫn đơn giản hơn tính chất hóa học của các ion kim loại chuyển tiếp trong nước. Canxi là nguyên tố quan trong các quá trình địa hóa. Các khoáng chất tạo thành các nguồn ion canxi chủ yếu trong nước. Các khoáng chất chủ yếu góp phần tạo ra ion canxi là thạch cao CaSO4.2H2O, CaSO4, dolomite CaMg(CO3)2, aragonite, vốn là các dạng khác nhau của CaCO3. Canxi xuất hiện trong nước là do sự cân bằng giữa canxi và các hợp chất magie cacbonat cùng với CO2 tan trong nước, khí này từ không khí hay các chất hữu cơ bị thối rữa trong các chất cặn. Nước 13
chứa lượng lớn cacbon dioxit sẽ hòa tan nhanh chóng canxi từ các hợp chất cacbonat. Nồng độ CO2 trong nước quyết định độ hòa tan của canxi cacbonat. Lượng cacbon dioxit mà nước có được nhờ vào sự cân bằng với không khí không đủ để tạo ra canxi hòa tan trong nước tự nhiên, đặc biệt là nước ngầm. Thay vào đó, hoạt động hô hấp của các vi sinh vật phân hủy các chất hữu cơ có trong nước, trong các chất cặn và đất sẽ cung cấp lượng CO2 cần thiết để hòa tan CaCO3 trong nước. Đây là một yếu tố hết sức quan trọng trong các chu trình hóa học môi trường nước và các quá trình chuyển hóa địa hóa. Ion canxi, cùng với ion magie, đôi khi là ion sắt II, quyết định độ cứng của nước. Minh họa điển hình nhất về độ cứng của nước là kết tủa vón cục của phản ứng giữa xà phòng với ion canxi trong nước cứng. Nhiệt độ tăng có thể làm cho phản ứng này xảy ra bằng cách giải phóng khí CO2 và chất kết tủa trắng của canxi cacbonat có thể hình thành trong nước sôi có độ cứng tạm thời. Do có sự có mặt của các muối, chủ yếu là các muối canxi và muối magie, nước cứng không gọi là nước ô nhiễm vì không gây hại cho sức khỏe con người. Nhưng độ cứng của nước lại có ảnh hưởng lớn đến sản xuất công nghiệp như đóng cặn trong nồi hơi do tạo kết tủa với các ion Ca 2+, Mg2+; pha chè không ngấm, làm giảm tác dụng của hợp chất tạo bọt của xà phòng. Độ cứng của nước được chia làm thành hai loại: + Độ cứng tạm thời: do các muối hydrocacbonat của canxi và magie tạo nên, khi đun nước sôi độ cứng tạm thời sẽ mất, do tạo kết tủa CaCO3 và MgCO3. + Độ cứng vĩnh cửu: do các muối sunfat, clorua của canxi và magie tạo nên. Ngoài ra một số các cation kim loại khác như: Al3+, Fe3+,… cũng làm tăng độ cứng của nước, độ cứng vĩnh cửu thường rất khó loại trừ. Độ cứng của nước được biểu thị bằng hàm lượng của CaCO3, đơn vị là mg/l. Có thể phân loại độ cứng của nước như sau: Độ cứng của nước Hàm lượng CaCO3 (mg/l) Nước mềm < 50 Nước cứng trung ≈ 150 bình > 300 Nước quá cứng 13. Hàm lượng oxi hòa tan trong nước(DO: dissolved oxygen) Cùng với trị số pH, khí oxi hòa tan là yếu tố thủy hóa quan trọng xác định cường độ hàng loạt quá trình sinh hóa xảy ra trong môi 14
trường nước. Với khả năng hoạt động hóa học mạnh, oxi hòa tan trong nước là một hợp phần rất linh động, sự phân bố theo không gian và biến đổi theo thời gian của nó chịu tác động của hàng loạt hiện tượng và quá trình, trong đó đáng kể nhất là quá trình tương tác của nước, khí quyển, hoạt động của thủy sinh vật, mức độ ô nhiễm của nước…Chính vì vậy oxi hòa tan trong nước được xem là một trong những yếu tố chỉ thị cho khối nước, cho nhiều quá trình lý hóa xảy ra trong đó, đồng thời nó còn được sử dụng như một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường, nhất là ô nhiễm chất hữu cơ. Tất cả các sinh vật đều phụ thuộc vào oxi dưới dạng nào đó để duy trì quá trình trao đổi chất đáp ứng sinh sản và phát triển. Lượng oxi hòa tan trong nước rất ít, với nước sạch, độ hòa tan của oxi ở 0oC, 1atm là 14.6 ppm. Chỉ số DO thấp có nghĩa là nước có nhiều chất hữu cơ, nhu cầu oxi hóa tăng nên tiêu thụ nhiều oxi trong nước. Chỉ số DO cao chứng tỏ nước có nhiều rong tảo tham gia quá trình quang hợp giải phóng oxi, thậm chí đạt trên mức bão hòa (nếu đạt giá trị 200% được gọi là siêu bão hòa). Về mặt hóa học, oxi không tham gia phản ứng với nước, độ hòa tan oxi vào nước phụ thuộc vào nhiệt độ. Ngoài ra còn phụ thuộc vào tiêu hao oxi do quá trình phân hủy sinh học chất hữu cơ do vi khuẩn hiếu khí, sự bổ sung oxi do quá trình quang hợp, hao hụt oxi do quá trình hô hấp của động vật trong nước và chiều sâu của nước. Chỉ số DO trong nước ở áp suất 1atm Và các nhiệt độ khác nhau Nhiệt độ o C 0 5 10 15 20 25 30 Nước ngọt 14.6 12.8 11.3 10.2 9.2 8.4 7.6 (ppm) Nước biển 11.3 10.0 9.0 8.1 7.1 6.7 6.1 (ppm) 14. Nhu cầu oxi sinh hóa (BOD: biochemical oxygen demand) Nhu cầu sinh hóa là lượng oxy mà sinh vật đã sử dụng trong quá trình oxi hóa các chất hữu cơ trong nước. Đơn vị tính theo mg/l. vi khuẩn Chất hữu cơ + O2 CO2 + H2O + tế bào mới Oxi cần cho quá trình này là oxi hòa tan trong nước. Quá trình oxi hóa sinh học xảy ra rất chậm và kéo dài. 15
Chỉ số BOD chỉ ra lượng oxi mà vi khuẩn tiêu thụ trong phản ứng oxi hóa các chất hữu cơ trong nước ô nhiễm, chỉ số BOD càng cao chứng tỏ lượng chất hữu cơ có khả năng phân hủy sinh học trong nước ô nhiễm càng nhiều. Trong thực tế không thể xác định lượng oxi cần thiết để vi sinh vật oxi hóa hoàn toàn chất hữu cơ có trong nước, chỉ xác định được lượng oxi cần thiết để vi sinh vật oxi hóa các hợp chất hữu cơ trong 5 ngày ở nhiệt độ 20oC trong buồng tối, kết quả được biểu thị bằng BOD5. 15. Nhu cầu oxi hóa học (COD: chemical oxygen demand) Trong nước thường tồn tại những hợp chất vô sinh có khả năng tiêu thụ oxi hòa tan bằng các phản ứng hóa học. Nguồn gốc và hàm lượng các hợp chất này trong nước mặt và nước thải rất khác nhau, bản chất và tính chất hóa học của chúng cũng rất khác nhau. Theo quan hệ hóa học giữa chúng với oxi hoặc với một số chất khác thì đại đa số trong chúng có tính khử, một số lại có tính oxi hóa. Tuy nhiên, dù mang đực trưng nào thì những hợp chất này cũng vẫn có khả năng tiêu thụ một lượng oxi hòa tan trong nước. Tập hợp những chất và hợp chất có khả năng tiêu thụ oxi hòa tan trên tạo nên “nhu cầu oxi hóa hóa học” của nước (tức là khả năng tiêu thụ oxi trong các phản ứng oxi hóa – khử xảy ra trong nước). Những hợp phần có khả năng tiêu thụ oxi trong nước bằng con đường hóa học như đã nêu trên, thường có nguồn gốc là các hợp chất hữu cơ, chủ yếu là các hợp chất phức tạp và đa dạng của cacbon. Như vậy, nhu cầu oxi hóa học của nước được tạo nên chủ yếu do hợp phần hữu cơ có trong nước. Do đó có thể dùng COD để đặc trưng định lượng cho hàm lượng của hợp phần này. Nguồn cung cấp các chất hữu cơ cho nước tự nhiên còn chủ yếu do sự phân hủy tàn tích hữu cơ và các sản phẩm của quá trình hoạt động sống của động vật, các xác động thực vật…Ngoài ra, chất hữu cơ còn được cung cấp từ các nguồn nước thải công nghiệp và sinh hoạt. Chính vì vậy COD của nước còn được coi là một chỉ tiêu của ô nhiễm môi trường. Tóm lại, COD là nhu cầu oxi cần thiết cho quá trình oxi hóa toàn bộ các chất hữu cơ trong mẫu nước thành CO 2 và H2O bằng các tác nhân oxi hóa mạnh. 16. Hàm lượng sắt và mangan trong nước Khi trong nước có chứa các ion sắt và mangan, chúng sẽ gây nên độ đục và màu trong nước: Fe2+ oxy hóa Fe3+ màu nâu đỏ Mn2+ oxy hóa Mn4+ màu đen 16
Các ion này có tính chất duy trì sự phát triển của một số vi khuẩn gây thối rửa trong hệ thống phân phối nước. Nước có hàm lượng sắt > 0.3 mg/l và mangan > 0.05 mg/l sẽ gây mùi tanh, khó chịu, làm nước có màu. Khi bị oxi hóa chúng chuyển thành các hợp chất sắt và mangan hóa trị cao gây keo hoặc kết tủa làm tắc các đường ống dẫn nước. 17. Hàm lượng photpho Photpho có thể tồn tại trong nước dưới các dạng H2PO4-, HPO42-,PO43-, các poly photphat như Na3(PO3)6 và phopho hữu cơ. Đây là nguồn dinh dưỡng cho các thực vật dưới nước, chúng gây ô nhiễm và góp phần thúc đẩy hiện tượng phì dinh dưỡng ở các ao, hồ. 18. Hàm lượng sunfat Hàm lượng sunfat trong nước cao sẽ ảnh hưởng tới việc hình thành H2S gây mùi khó chịu, nhiễm độc với cá, ngoài ra còn gây hiện tượng đóng cặn cứng trong nồi đun, gây hiện tượng xâm thực ăn mòn đường ống dẫn. vi khuẩn SO42- + hợp chất hữu cơ S2- + H2O + CO2 yếm khí S2- + 2H+ H2S 19. Hàm lượng nitơ Hợp chất nitơ trong nước tự nhiên là nguồn dinh dưỡng cho thực vật. Trong nước nitơ tồn tại ở nhiều dạng khác nhau như: NO3-, NO2-,… Hàm lượng các hợp chất chứa nitơ cũng là một chỉ tiêu đánh giá mức độ ô nhiễm nước. Hàm lượng NH3 cao gây nhiễm độc cho các sinh vật sống trong nước; hàm lượng NO2-, NO3- cao sẽ kết hợp với hồng cầu tạo thành chất không vận chuyển oxi gây bệnh xanh xao thiếu máu. 20. Hàm lượng kim loại nặng: Pb, Cu, Ni, Cd… Các kim loại nặng thường có trong nước thải đô thị hoặc nước thải công nghiệp. Những kim loại này ở các pH khác nhau tồn tại ở các dạng khác nhau gây ô nhiễm nước, độc hại với sinh vật. 21. Hàm lượng chất dầu mỡ Chất dầu mỡ trong nước có thể là chất béo, axit hữu cơ, dầu, sáp… Chúng có thể gây khó khăn cho quá trình vận chuyển nước, ngăn cản oxy hòa tan trong nước và tạo lớp phân cách bề mặt với khí quyển.
Trong nước thiên nhiên có nhiều loại vi trùng, siêu vi trùng, rong, tảo và các đơn bào. Chúng xâm nhập vào nước từ các môi trường xung quanh hoặc sống trong nước. Có thể chia làm hai loại: + Loại vi sinh có hại là các vi khuẩn gây bệnh từ các nguồn rác thải, bệnh của người và các động vật như tả, thương hàn, bại liệt… Vi khuẩn E – coli là vi khuẩn đặc trưng cho mức độ nhiễm trùng nước. + Các loại rong tảo làm nước có màu xanh, khi thối rửa làm tăng hàm lượng chất hữu cơ trong nước. Các chất hữu cơ này phân hủy sẽ tiêu thụ oxi, gây hiện tượng thiếu oxi và làm ô nhiễm nước.
1.      Ảnh hưởng của nước thải đối với nguồn nước tiếp nhận Nước đã tạo nên văn minh của nhân loại. Nhân loại ở thế kỷ 20 đã đứng trước nguy cơ căng thẳng về nguồn năng lượng và vấn đề ô nhiễm môi trường. Vậy thế kỷ 21 nhân loại có thể đứng trước nguy cơ gì lớn hơn nữa? Nguy cơ nước sạch. Đó là nhận thức chung của các chuyên gia trên toàn thế giới. Nguy cơ thiếu nước có tính chất toàn cầu là do nguồn nước thải ngày một tăng đã ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nước tiếp nhận. Dưới đây là một số ảnh hưởng chính do nước thải gây ra đ ối với nguồn nước tiếp nhận:
 Xuất hiện các chất nổi trên mặt nước hoặc có cặn lắng: các hiện tượng nhiễm bẩn này thường do nước thải từ các xí nghiệp chế biến thực phẩm hoặc nước thải sản xuất của các xí nghiệp có chứa dầu mỡ và sản phẩm dầu mỡ. Chúng tạo nên lớp màng dầu, mỡ nỗi trên mặt nước và nếu cặn nặng thì lắng xuống đáy. Chúng làm cho nước có mùi vị đặc trưng và làm giảm lượng oxi trong nước nguồn. Với hàm lượng dầu 0.2 – 0.4 mg/l sẽ làm cho nước có mùi dầu. Khử mùi dầu là một việc làm khó khăn. Tôm cá trong nước bị nhiễm bẩn do các sản phẩm dầu mỡ có tốc độ sinh trưởng chậm, thậm chí không sinh trưởng được và thịt của chúng có mùi dầu.
Thay đổi tính chất lý học: nguồn nước tiếp nhận nước thải sẽ bị đục, có màu, có mùi do các chất thải đưa vào hoặc do sự phát triển của rong, rêu, tảo, sinh vật phù du… tạo nên.
 Thay đổi thành phần hóa học: tính chất hóa học của nguồn nước tiếp nhận sẽ bị thay đổi phụ thuộc vào loại nước thải đổ vào. Nguồn nước thải mang tính axit hoặc kiềm hoặc chứa nhiều loại hóa chất làm thay đổi thành phần và hàm lượng các chất có sẵn trong thủy vực.  Lượng oxy hòa tan trong nước giảm: hàm lượng oxy hòa tan trong nguồn nước tiếp nhận bị giảm là do tiêu hao oxy để oxy hóa các chất hữu cơ do nước thải đổ vào. 19
Hiện tượng giảm oxy hòa tan ( < 4 mg/l) trong nước sẽ gây ảnh hưởng xấu cho các loài thủy sinh vật. 1.5 Xuất hiện hoặc làm tăng các loại vi khuẩn gây bệnh: nước thải kéo theo các loài vi khuẩn gây bệnh vào nguồn nước tiếp nhận làm suy chất lượng nước cấp cho các mục đích sử dụng, trong đó đặc biệt là dùng trong sinh hoạt và sản xuất. Tóm lại, nước thải nếu bị lưu đọng xử lý chưa đạt yêu cầu sẽ gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt đối với nguồn nước tiếp nhận, hậu quả kéo theo gây tác động xấu đến vệ sinh môi trường và sức khỏe con người. 2. Nguồn gốc và thành phần gây ô nhiễm nước Sự ô nhiễm môi trường nước là sự thay đổi thành phần và tính chất của nước gây ảnh hưởng tới hoạt động sống bình thường của con người, sinh vật, đến sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và thủy sản.



Ở nước ngoài, vị trí của ngành Khoa học Trái đất là ở đâu so với các ngành khoa học khác? Còn ở Việt Nam thì sao? Một số ngành thuộc Khoa Học Trái Đất được đầu tư và khuyến khích phát tiển tương đối cao như các ngành thăm dò và khai thác khoáng sản, dầu khí, ngành công nghệ môi trường... Đối với các nước luôn bị đe dọa bởi thiên tai như Nhật Bản, Hoa Kỳ thì việc đầu tư cho ngành Khoa học Trái đất được đưa lên rất cao vì ứng dụng thực tiễn của nó trong việc dự báo, phòng chống và giảm thiểu thiên tai như động đất, núi lửa, bão lụt, sóng thần... Tại Việt Nam, ứng dụng của Khoa học Trái Đất vào thăm dò dầu khí và khoáng sản đang được đặt lên hàng đầu, tiếp sau đó là các ứng dụng trong việc dự báo bão lụt, hạn hán và một số các ứng dụng quan trọng khác trong việc sử dụng và qui hoạch đất đai trong nông nghiệp... Ở nước ta, các nhà nghiên cứu Khoa Học Trái Đất có thể làm những công việc gì? Ở Việt nam, các nhà nghiên cứu Khoa Học Trái Đất có thể làm các công việc nghiên cứu lý thuyết đến áp dụng thực tiễn ví dụ như nghiên cứu lịch sử phát triển của một vùng đất, khai thác thăm dò tài nguyên, dự báo về những thay đổi của tự nhiên trong tương lai hay có thể tham gia vào các hoạt động quản lí và hoạch định chính sách đất đai. Đặc biệt là khả năng hợp tác cùng nghiên cứu với các nhà nghiên cứu Khoa học Trái đất trên toàn thế giới đã giúp cho các nhà nghiên cứu Khoa Học Trái Đất ở Việt Nam có nhiều cơ hội làm việc và cộng tác hơn. Trong thời điểm đang thực thi công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn liền với phát triển bền vững , thì việc sử dụng chất xám của các nhà nghiên cứu Khoa học trái đất đang rất cần thiết để phát triển và xây dựng đất nước. Những tố chất quan trọng để theo học ngành Khoa Học Trái đất? Đối với một ngành học, ngành nghiên cứu đều cần đến sự yêu thích và niềm say mê tìm hiểu, ngành Khoa học Trái Đất cần ở người học, nghiên cứu, làm việc tình yêu thiên nhiên, say mê tìm hiểu các hiện tượng diễn ra trên chính Trái Đất. Bên cạnh đó, ngành Khoa học về Trái đất là ngành khoa học tổng hợp nên nó đòi hỏi sự tổng hợp các kiến thức của các khoa học cơ bản khác như Toán học, Vật lý, Hóa học và Tin học... để phân tích và minh giải các vấn đề liên quan. Làm sao tôi có thể biết mình có năng khiếu về Khoa Học Trái Đất? Nếu bạn luôn tự đặt các câu hỏi "tại sao", “như thế nào” về những hiện tượng thiên nhiên luôn xảy ra xung quanh bạn như: đồi núi, sông ngòi đã được hình thành như thế nào, tại sao lại có những thiên tai, tại sao đá lại nhiều màu, những khoáng sản được tích tụ và phát hiện ra sao... thì bạn đã có thể khẳng định phần nào sự yêu thích và năng khiếu về Khoa học Trái Đất của bạn.. Từ chính niềm yêu thích tìm hiểu thiên nhiên này, cùng với kiến thức của các môn khoa học tự nhiên và xã hội cần thiết (Toán học, Vật lý, Hóa học...) sẽ giúp bạn giải đáp những câu hỏi trên. Khoa học Trái Đất.
Khoa học Trái đất. Thế giới tự nhiên phong phú và đa dạng vô cùng nên những gì học được trên giảng đường chỉ là một phần nhỏ trong hành trang kiến thức. Việc tổ chức đi thực tập là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của nhà trường, có thể là đi thực tập ngoài thiên nhiên, thực tập tại các cơ quan, viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu với các ngành, chuyên ngành tương ứng. Sinh viên cũng có thể chủ động liên hệ nơi thực tập. Tốt nghiệp các ngành Khoa học về Trái Đất, có thể làm gì và ở đâu? (Hướng nghiệp Khoa học Trái Đất?) * Nghiên cứu khoa học, giảng dạy các ngành, chuyên ngành thuộc Khoa học Trái Đất tại các trường Đại học có các ngành, chuyên ngành tương ứng. Công tác nghiên cứu khoa học tại các Trung tâm, các Viện nghiên cứu tương ứng trong cả nước. * Tìm kiếm, phát hiện, đánh giá, khai thác và giữ gìn các nguồn tài nguyên, giúp tăng trưởng kinh tế và đồng thời bảo vệ lợi ích lâu dài cho con người --> Tổng cục Dầu khí, các công ty khai thác khoáng sản và dầu khí, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam (DGMV), Tổng cục quản lí tài nguyên nước, Tổng cục Du lịch… * Quy hoạch, quản lý và bảo vệ môi trường --> Bộ Tài nguyên thiên và môi trường và các Sở KHCN tại tỉnh, thành phố gồm: Cục bảo vệ môi trường (NEA) và các đơn vị trực thuộc, Tổng Cục Đo đạc và Bản đồ, Tổng cục Bảo vệ Môi trường, Tổng cục quản lí tài nguyên nước, Trung tâm Khoa học và Công nghệ Quốc gia, Tổng cục Địa chính, Tổng cục Du lịch, các công ty phát triển du lịch sinh thái... * Xây dựng và qui hoạch công trình, qui hoạch và phát triển đô thị, nông thôn: Tổng cục Đo đạc và Bản đồ; Sở Địa chính và các đơn vị trực thuộc; Vụ khảo sát thiết kế xây dựng - Bộ xây dựng và các đơn vị trực thuộc. * Nghiên cứu, dự báo, đánh giá các hiểm họa thiên nhiên: --> Cục phòng chống thiên tai và các đơn vị trực thuộc; Tổng cục Khí tượng thủy văn, Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn Trung ương (KTVN) và các trạm khí tượng phân vùng... Ngoài các ví dụ tổng quát trên, tốt nghiệp một ngành, chuyên ngành thuộc Khoa học Trái Đất có thể tìm các cơ hội công tác, làm việc tại rất nhiều đơn vị cơ quan, xí nghiệp với nhu cầu kiến thức tương ứng, ví dụ cử nhân chuyên ngành Ngọc học có thể làm việc tại bộ phận kiểm định đá quý thuộc một công ty vàng bạc và đá quý... Tốt nghiệp cử nhân ngành Sư phạm Địa lý có thể giảng dạy môn Địa lý tại các trường Phổ thông Cơ sở và Phổ thông Trung học Chọn khối thi nào để thi vào các ngành Khoa học về Trái Đất? Khoa học Trái đất có rất nhiều chuyên ngành khác nhau, vì vậy có thể học các khối A, B, C, D tùy theo yêu cầu của mỗi chuyên ngành riêng. Ví dụ: để theo học ngành địa chất, môi trường phải thi khối A hoặc B; theo học ngành địa lí du lịch phải thi khối C, D... Các cơ sở đào tạo các ngành Khoa học về Trái Đất bậc cao đẳng và đại học ở Việt Nam? - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội (Hanoi University of Science - Vietnam National University, Hanoi) với các ngành Địa lý, Địa chất, Địa chính, Địa kỹ thuật - Địa môi trường, Khí tượng - Thuỷ văn - Hải dương học, Thổ nhưỡng, Khoa học Môi trường, Công nghệ Môi trường.


1.3 THẠCH QUYỂN (Lithosphere):
    1.3.1. Cấu trúc của vỏ Trái Đất
           Vỏ Trái đất hay thạch quyển, là một lớp vỏ cứng rất mỏng cấu tạo hình thái rất phức tạp, có thành phần không đồng nhất, có độ dày thay đổi theo vị trí địa lý khác nhau. Theo các nhà địa chất, vỏ Trái đất được chia làm hai kiểu: vỏ lục địa và vỏ đại dương. Vỏ đại dương có thành phần chủ yếu là các đá giàu CaO, FeO, MgO, SiO2 (đá bazan) trải dài trên tất cả các đáy của các đại dương với chiều dày trung bình 8km. Thực ra, vỏ đại dương có thể chia ra làm các phụ kiểu:
-         Vỏ miền nền đại dương đặc trưng cho phần lớn diện tích đáy đại dương và là loại vỏ đại dương điển hình, có chiều dày 3-17km.
-         Vỏ đại dương mìên tạo núi, phát triển trên các cung đảo và núi ở giữa đáy đại dương, có chiều dày 10-25km.
-         Vỏ đạic dương vùng đại máng đặc trưng cho các biển ven rìa có cung đảo chắn (biển Nhật Bản, biển Java,…) với bề dày của lớp đá bazan 5-20km, đôi chỗ còn thấy di tích lớp đá granit.
-         Vỏ đại dương trong các vực thẳm với bề dày trung bình 8-10km.
-         Vỏ đại dương ở các biển  nội địa có chiều dày lớp đá trầm tích khá dày, đạt 10-12km ở biển Hắc Hải, 20-40km ở biển Caxpiên.
          Vỏ lục địa, gồm 2 lớp vật liệu chính là đá bazan dày 10-20km ở dưới và các loại đá khác: granit, sienit giàu SiO2, Al2O3 và đá trầm tích ở bên trên. Vỏ lục địa thường rất dày, trung bình 35 km, có nơi 70-80km như ở vùng núi cao Hymalaya. Ở vùng thềm lục địa, nơi tiếp xúc giữa đại dương và lục địa, lớp vỏ lục địa giảm còn 15-20km. Vỏ lục địa thường phân chia thành 3 phụ kiểu:
-         Vỏ lục địa mìên nền, thường gặp trên các miền đại lục, phần trên của sườn lục địa và đáy biển nội địa với lớp granit có chiều dày thay đổi.
-         Vỏ lục địa miền tạo núi đại lục, thường gặp tại các phần cao của lục địa (vùng núi có độ cao dưới 4000m) và trên các đảo (Mađagasca, Kalimanta, Tân Ghinê,…). Ở loại này chìêu dày lớp granit và bazan đều lớn hơn phụ kiểu trên.l
-         Vỏ lục địa mìên tạo núi trẻ và mạnh (Hymalaya), đặc trưng cho vùng núi cao trên 4000m trên các đại lục, với bề dày của vỏ trên 60km, cho tới 80km.
          Có nhiều lý thuyết đề cập tới quá trình phát triển có định hướng của vỏ Trái đất như thuyết địa máng và thuyết kiến tạo mảng. Theo lý thuyết địa máng thì khuynh hướng chủ yếu trong lịch sử phát triển của vỏ Trái đất là sự quá độ chuyển hóa từ cấu trúc vỏ nền đại dương thành các đai địa máng hoạt động mạnh, và cuối cùng thành các địa máng nội địa. Khi các đại dương này khép lại thì diện tích lục địa mở rộng, còn diện tích đại dương thu hẹp. Trong quá trình biến chất và uốn nếp, xảy ra hiện tượng “granit hóa” lớp vỏ bazan vốn có của vỏ đại dương thành lớp granit của vỏ lục địa. Khi chế độ địa máng kết thúc thành các mìên nền thì quá trình granit hóa cũng kết thúc.
          Theo lý thuyết kiến tạo mảng, thạch quyển gồm vỏ và tầng mantia trên, bị vỡ ra thành 12 mảng di chuyển chậm theo phương nằm ngang trên bề mặt Trái đất. Sự di chuyển các mảng thực hiện trên nền một quyển mềm (Asthenosphere) nằm ngay dưới thạch quyển. Ranh giới giữa các mảng này có thể là phân kỳ, hội tụ hoặc biến đổi. Tại ranh giới phân kì, ví dụ tại sống núi giữa Đại Tây Dương, nơi hai mảng tiếp xúc có xu hướng tách giãn xa nhau thạch quyển mới sẽ được hình thành bằng dung nham của hoạt động núi lửa. Tại ranh giới hội tụ, ví dụ vùng núi Hymalaya, hai mảng chuyển động ngược chiều nhau làm cho một trong hai mảng chúi xuống dưới. Tại ranh giới biến đổi, các mảng trượt qua nhau dọc theo ranh giới.
                                Trái Đất cắt ngang từ lõi tới khí quyển.
                                                Hình 1 Trái đất cắt ngang từ lõi đến khí quỷên
          Bảng 1   Các nguyên tố hóa học phổ bíên trong vỏ Trái Đất
Nguyên tố
% trọng lượng toàn vỏ
% thể tích so với toàn vỏ
O
46,60
93,77
Si
27,72
0,86
Al
8,13
0,47
Fe
5,0
0,43
Mg
2,09
0,29
Ca
3,63
1,03
Na
2,83
1,32
K
2,59
1,83
          Như vậy, 8 nguyên tố hóa học phổ biến trên chiếm 99% trọng lượng vỏ Trái đất.. Nếu cộng thêm với 4 nguyên tố hóa học nữa là H, Ti, C, Cl thì dãy 12 nguyên tố đó chiếm 99,67% trọng lượng vỏ Trái đất. 80 nguyên tố hóa học tự nhiên còn lại của bảng tuần hoàn chỉ, chỉ chiếm 0,33% trọng lượng vỏ Trái đất. Nói cách khác, con người hiện đang sống trong một phần rất mỏng manh, có thành phần phức tạp và rất linh động của Trái đất là vỏ Trái đất. Cấu trúc Trái đất và các quá trình hóa lý phức tạp xảy ra trong lòng Trái đất vẫn đang chứa đựng nhiều điều bí ẩn với con người.
    1.3.2. Sự hình thành đá, cấu trúc địa chất và khoáng sản
          Đá là một thể địa chất, bao gồm tập hợp của 1 hay nhìêu khoáng vật được tạo thành trong một điều kiện địa chất nội hoặc ngoại sinh nhất định trong lịch sử phát trỉên của vỏ thạch quyển.
          Đất đá và và các khoáng vật tự nhiên, được tạo thành trên trái đất nhờ 3 quá trình địa chất chính: macma, trầm tích và biến chất.Các loại đá hình thành do sự nguội đi của dung thể macma hoặc tác động trực tiếp của dung thể đó gọi là đá macma. Các loại đá được hình thành trên bề mặt Trái đất hoặc lắng đọng trong đáy biển, đại dương, các bồn nước,…được gọi là đá trầm tích. Đá macma hoặc đá trầm tích bị biến đổi dước áp suất và nhiệt độ cao thành đá biến chất. Ba loại đá macma, biến chất, trầm tích có quan hệ nhân quả chặt chẽ với nhau trong vỏ Trái đất.
Nhiệt mặt trời
                                                                         Đá macma
                                                                              
                                                                          Đá macma 
                       Phong hóa trầm tích
                             
                             Đá trầm tích                                           
                                                                                                                     Đá trầm tích
                                                                             Đá
                                                                            Biến chất                                                                                                                                
                                                                                                               
                                                                                                              Nhiệt phóng xạ            
Hình 2 Chu trình biến đổi các loại đá chính trong vỏ Trái Đất.
                                                                                                                                    
          Phù hợp với các quá trình địa chất trên, các khoáng vật ở vỏ Trái đất cũng được tạo thành trong các quá trình tương ứng: trầm tích, biến chất và macma. Hai quá trình sau thường xảy ra trong lòng Trái đất được gọi là quá trình nội sinh.Khoáng vật hình thành trên bề mặt Trái đất (trầm tích hoặc biến chất) thường gọi khoáng vật ngoại sinh. Tương tự như vậy, các tích tụ khoáng vật hoặc nguyên liệu khoáng ở vỏ Trái đất dưới dạng các khoáng sản, cũng được gọi tên theo các quá trình hình thành chúng như: Các mỏ nguồn gốc macma, biến chất hoặc trầm tích. Ví dụ:
-         Các khoáng sản như kim cương, kim loại quý, quặng sunfur, các quặng thường gặp trong đá macma.
-         Các khoáng sản nhiên liệu (như than, dầu khí), bauxit, kaolin, muối mỏ,…được tạo ra nhờ các quá trình trầm tích và thường gặp trong các đá trầm tích.
-         Một số loại khác như apatit, quặng sắt, ngọc rubi và safia thường gặp trong đá biến chất.
Bảng 1    Thuật ngữ khoáng chất
Khoáng chất
Các nguyên tố, các hợp chất hình thành một cách tự nhiên trong vỏ Trái đất. Khoáng chất có thể là kim loại hay á kim.
Đá
Hỗn hợp các khoáng có hàm lượng hóa học thay đổi.
Quặng
Đá chứa hàm lượng cao một khoáng chất điển hình có lợi để khai thác hoặc tuỷên khoáng. Các quặng giàu chứa hàm lựong cao những khoáng chất mong muốn, các quặng nghèo thì ngược lại.
Kim loại
Các khoáng có tính dẻo, óng ánh và dẫn điện, dẫn nhiệt tốt. Ví dụ: vàng, đồng và sắt.
Á kim
Các khoáng không có tính dẻo, không óng ánh và dẫn điện, dẫn nhiệt kém. Ví dụ: cát, muối và photphat.
1.1.3. Sự hình thành đất và sự biến đổi của vỏ cảnh quan:
          Đất là lớp ngoài cùng của thạch quyển, bị biến đổi tự nhiên dưới tác động tổng hợp của nước, không khí, sinh vật. Các thành phần chính của đất là chất khoáng chiếm 40%, nước chiếm 35%, không khí chiếm 20%, còn lại là mùn và các loại sinh vật từ vi sinh vật cho đến côn trùng, chân đốt,… 
          Đất có cấu trúc phân lớp rất đặc trưng, xem xét phẫu diện đất có thể thấy sự phân tầng cấu trúc từ trên xuống dưới như sau:
-         Tầng thảm mục và rễ cỏ được phân hủy ở mức độ khác nhau.
-         Tầng mùn thường có màu thẫm hơn, tập trung các chất hữu cơ và dinh dưỡng của đất.
-         Tầng rửa trôi, do một phần vật chất bị rửa trôi xuống tầng dưới.
-         Tầng tích tụ, chứa các chất hòa tan và hạt sét bị rửa trôi từ tầng trên.
-         Tầng đá mẹ bị biến đổi ít nhiều nhưng vẫn giữa được cấu tạo của đá.
-         Tầng đá gốc chưa bị phân hóa hoặc biến đổi.
          Các loại đất phát sinh trên cùng loại đá, trong điều kiện thời tiết và khí hậu tương tự nhau, đều có cùng một kiểu cấu trúc, phẫu diện và độ dày.
          Các nguyên tố hóa học trong đất tồn tại dưới dạng hợp chất vô cơ, hữu cơ, có nguồn gốc chủ yếu từ đá mẹ. Hàm lượng các nguyên tố của đất không cố định, biến đổi phụ thuộc vào quá trình hình thành đất. Thành phần hóa học của đất và đá mẹ ở giai đoạn đầu của quá trình hình thành đất có quan hệ chặt chẽ với nhau. Về sau, thành phần hóa học của đất phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của các nhân tố khí hậu thời tiết; các quá trình hóa, lý, sinh học xảy ra trong đất và sự tác động của con người. Theo hàm lượng và nhu cầu dinh dưỡng đối với cây trồng, các nguyên tố hóa học của đất được chia thành 3 nhóm.
-         Nguyên tố đa lượng: O, Si, Al, Fe, Mg, K, P, S, N, C, H.
-         Nguyên tố vi lượng: Mn, Zn, Cu, B, Mo, Co, …
-         Nguyên tố hiếm và phóng xạ: Br, In, Ra, I, Hf, U, Th,…
          Hàm lượng các nguyên tố trên dao động trong phạm vi rộng, phụ thuộc vào loại đất và các quá trình sử dụng đất.
          Địa hình mặt đất và cảnh quan là kết quả tác động tương hổ đồng thời, ngược với nhau và liên tục của 2 nhóm quá trình nội sinh (sự nâng lên của bề mặt) và ngoại sinh ( tác động bào mòn và san bằng của dòng chảy và khí hậu bề mặt). Sự tranh giành ưu thế của 2 nhóm yếu tố nội sinh và ngoại sinh trong việc ảnh hưởng tới đại hình sẽ bắt đầu khi một khu vực nào đó của Trái đất nhô lên khỏi mặt nước biển. Như vậy, địa hình dương chỉ hình thành khi nội lực chiếm ưu thế, còn địa hình âm khi quá trình sụt lún lớn hơn quá trình bồi tụ. Địa hình phát triển qua nhìêu giai đoạn khác nhau trên các cấu trúc địa chất rất khác nhau, nên rất đa dạng. Để thuận tiện cho nghiên cứu người ta tiến hành phân loại địa hình theo các tiêu chí khác nhau: phân loại địa hình theo tương quan với bề mặt nằm ngang, phân loại địa hình theo độ phức tạp của địa hình, phân loại địa hình theo kích thước, phân loại địa hình theo hình thái và trắc lượng hình thái,phân loại địa hình theo nguồn gốc phát sinh.






Tính chất địa hình
Độ cao tuyệt đối (m)
Đặc điểm hình thái
Đồng bằng
- Trũng
- Thấp
- Cao
- Trên núi


Dưới mực nước biển
0-200
200-500
500-2500

Gợn sóng, chia cắt yếu, có gò thấp, chổ trũng.
Độ chia cắt sâu hoặc dao động độ cao dưới 10m.
Đồi
- Đồi ở vùng thấp
- Đồi ở vùng cao
- Đồi ở vùng núi

0-200
200-500
500-2500
Dao động độ cao 10-100m
- Đồi thấp, tỷ cao 10-25m
- Đồi trung bình thấp, tỷ cao 25-50m
- Đồi lớn, tỷ cao 50-70m
- Đồi rất lớn, tỷ cao 75-100m
- Có dạng bát úp, dạng nón, dạng vách dốc
Núi
- Thấp
- Trung bình thấp
- Trung bình
- Cao vừa
- Cao
- Rất cao

600-900
700(900)-1200
1200-2500
2500-3000
3000-5000
>5000
Dao động độ cao trên 100m
Gía trị độ chia cắt sâu:
- Nhỏ 100-250m
- Trung bình 250-500m
- Lớn 500-750m
- Rất lớn 750-1000m
Sưởn dốc, thung lũng sâu, đường sống núi có thể sắc nét hoặc mềm mại, xếp thành nhóm, dải hoặc hệ thống các dải núi




1.2. Thủy quyển ( Hydrosphere)
          Khoảng 71% với 361 triệu km2 bề mặt trái đất được bao phủ bởi mặt nước.Vì vậy, đã có nhà khoa học đề nghị thay vì gọi Trái đất bằng trái nước. Nước được coi là dạng thức vật chất cần cho tất cả các sinh vật sống trên Trái đất và là môi trường sống của rất nhiều loài.Nước tồn tại trên Trái đất ở cả 3 dạng: rắn, lỏng, khí.Trong trạng thái chuyển động (sông suối) hoặc tương đối tĩnh (hồ, ao, biển).Toàn bộ nước trên Trái đất tạo nên thủy quyển. Phần lớn lớp phủ nước trên Trái đất là biển và đại dương.Hiện nay, người ta chia thủy quyển làm 4 đại dương, 4 vùng biển và 1 vùng vịnh lớn.
    1.2.1. Sự hình thành đại dương        
           Sự hình thành Trái đất cùng các quyển được các nhà khoa học quan tâm và nghiên cứu rất nhiều.Tuy nhiên, do sự kiện xảy ra cách thời đại chúng ta rất lâu nên việc nghiên cứu gặp nhiều khó khắn. Với sự sáng tạo không ngừng, với trình độ công nghệ tiến bộ, con người đã dần hé mở được bức màn bí mật, ít nhiều khám phá được sự hình thành ngôi  nhà chung của các loài, trong đó có sự hình thành đại dương. Hiện nay, nhiều luận cứ vẫn còn ở dạng lý thuyết, giả thuyết, cần phải được làm sáng tỏ.
           Sự đông cứng lớp vỏ Trái đất được coi là sự bắt đầu lịch sử đại chất, các dấu hiệu địa chất thì được cho thấy, sự kiện này xảy ra cách đây 4.5 tỷ năm.Sự đông cứng lớp vỏ Trái đất liên quan đến sự nguôi đi do sự phát xạ năng lượng lớn vào không gian. Đồng thời, Trái đất cũng mất đi một phần các khí bao bọc. Quá trình này diễn ra phức tạp, song có thể thấy các khí nhẹ như hydro, heli bị mất vào không gian vũ trụ còn các khí nặng hơn như oxy, nito vẫn được giữ lại. Vào thời kỳ này, núi lửa hoạt động rất mạnh, phát thải ra nhiều loại khí hình thành nên khí quyển với thành phần khác xa khí quyển hiện tại. Khí quỷên lúc này chứa một hàm lượng oxy tự do nhỏ còn phần lớn là CO2 và hơi nước. Với sự lạnh đi làm cho hơi nước tích lũy ngày một dày tạo nên các đại dương đầu tiên trên Trái đất. Chính sự bốc hơi (mất nhiệt), ngưng kết (tỏa nhiệt) của hơi nước với nhiệt dung lớn lại làm gia tăng quá trình lạnh đi của bề mặt Trái đất qua thoát nhiệt vào các đám mây vũ trụ.Vì vậy, có thể nói hơi nước bản thân nó quyết định sự tồn tại của mình trên bề mặt Trái đất.
          Từ khi hình thành, khoảng 3,8 tỷ năm về trước, diện mạo của đại dương đã có những thay đổi lớn. Sự thay đổi này biểu hiện qua độ mặn của nước biển, mực nước biển, quá trình hình thành và tọa những khối băng khổng lồ, địa hình đáy biển và đặc biệt là sự phân bố giữa các đại dương và đất liền.
          Khi mới hình thành, nước biển không mặn như bây giờ. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, độ mặn của nước biển là do quá tình hòa tan và tích tụ các muối. Quá trình hòa tan và tạo băng liên quan tới các điều kiện khí hậu ở các thời đại khác nhau. Nhiều khi, quá trình tạo băng hà lại có nguyên nhân từ vũ trụ, đặc biệt khi có sự va chạm của các khối thiên thạch lớn tạo nên lớp bụi khổng lồ, ngăn bức xạ tới bề mặt trái đất làm lạnh  đáng kể bề mặt nước, tạo điều kiện hình thành các khối băng. Khi trái đất nóng lên (do tăng khí nhà kính) thì khối băng, có thể tan làm dâng mực nước biển dẫn đến làm ngập nhiều vùng địa hình thấp ven biển. Ngày nay, khi con người tác động mạnh vào thiên nhiên, một số quá trình có khả năng xảy ra mạnh hơn và đây là vấn đề nhân loại phải cân nhắc kỹ để tránh hậu quả.
          Để có được hình dạng lục địa và đại dương như hiện nay, đã có nhiều giả thuyết về sự hình thành.Có thể nêu ra một số học thuyết chính như: thuyết trôi dạt lục địa, thuyết nới rộng đáy biển và thuyết kiến tạo mảng.
          Theo học thuyết kiến tạo mảng, do hoạt động nội sinh trong lòng Trái đất, biểu hiện qua những vành đai núi lửa, lớp vỏ cứng trên bề mặt trái đất, kể cả trên đất liền lẫn dưới đáy đại dương được chia thành nhiều mảng. Ngay trong thời đại hiện nay, các mảng này đã được xác định.
          Nhà khoa học Đức Alfred Wegener đã dựa trên theo học thuyết này để giải thích sự phân bố lục địa đại dương thời xa xưa. Thuyết của Alfred Wegener đã được đưa ra năm 1912 và bị phê phán khá gay gắt. Theo ông, cách đây khoảng 200 triệu năm, toàn bộ lục địa còn là một khối, được gọi là Pangaea vào khoảng 180 triệu năm trước đây, khối  lục địa bắt đầu bị nạn rứt, tách thành mảng và di chuyển. Quá trình di chuyển này rất chậm chạp và tồn tại đến ngày nay. Những nhà khoa học sau này đã phát triển thêm và cố gắng chứng mình học thuyết này. Họ đã chỉ ra những vết rạn nứt lớn tạo thành các châu lục như hiện nay.
    1.2.2.Đới ven biển, cửa sông và thềm lục địa:
          Đới ven biển là nơi gặp nhau giữa đất liền và biển, được đánh dấu bằng những nét chung của hệ thống nhất lục địa- đại dương.
          Đây được coi là hệ thống mở, luôn diễn ra các tương tác lý hóa với ảnh hưởng của văn hóa. Đới ven biển còn là nơi diễn ra nhiều hoạt động mạnh mẽ như xói mòn, bão lũ, bất ổn định, ngoài ra còn có tranh chấp lợi nhuận liên quan đến hoạt động của con người như gây ô nhiễm, khai thác tài nguyên và phát triển không bền vững. Rất nhiều nước đã nhận thức được tầm quan trọng của đới ven biển về sinh thái và môi trường, văn hóa và cảnh quan. Những công việc cần tiến hành là điều tra, khảo sát nắm vững quy luật tự nhiên, tài nguyên khu vực đó quyết định phương thức phát triển phù hợp vừa cho hiệu quả kinh tế cao vừa bảo tồn, gìn giữ được môi trường, hệ sinh thái ven biển.
          Vùng ven biển bao gồm nhiều thành phần như :
                   Vách: phần lục địa giáp biển, có độ dốc cao
                   Bãi biển: phần cát sỏi, bùn do sông đưa vào
                   Bờ sau: được giới hạn bởi vách và mực nước biển khi thủy triều cao
                   Bờ trước: miền giữa hai đường bờ ứng với mực nước thủy triều cao và thấp.
            Bờ: bao gồm bờ trước, bờ sau và kéo dài tới rìa nước cuối cùng khi thủy triều thấp
          Ở nhiều nơi, bờ trước có khoảng cách lớn, cấu tạo bởi phù sa các sông và là nơi rừng ngập mặn phát triển tốt, với hệ sinh thái đa dạng, phong phú. Ở nhiều nơi khác lại được cấu tạo bởi cát sỏi, rất sạch nên thuận tiện cho việc tắm biển , nghỉ mát.
          Ở nhiều khu vực, khi mùa mưa đến, nhiều vùng đất ven biển bị ngập, rất khó xác định ranh giới đới ven bờ. Vùng đồng bằng sông Cửu Long nước ta là một ví dụ.
          Vùng cửa sông: cửa của một con sông, nơi nước chảy ra biển. Có thể coi đây là cánh tay vươn dài của biển cả vào đất liền. Các điều kiện vùng cửa sông phụ thuộc nhiều vào quá trình xảy ra trong đại dương và biển, đặc biệt là sự trộn lẫn nươc ngọt của sông và nước mặn của biển, ảnh hưởng của thủy triều.
          Ở nhiều vùng cửa sông xảy ra hiện tượng lấn biển với tốc độ khá nhanh. Quá trình lấn biển chủ yếu do quá trình lắng đọng phù sa và vật liệu (bùn cát) do thủy triều đưa vào. Ở nước ta, sông Hồng và sông Cửu Long đều mang phù sa nhưng do sông Hồng có hệ thống đê nội địa nên sự lấn biển của vùng cửa sông Hồng mạng hơn so với sông Cửu Long. Quá trình này diễn ra theo quy luật và có chu kỳ. Lúc đầu là sự hình thành các cồn cát ngay trước cửa sông, buộc dòng chảy phân tán ra hai ngách dọc bờ. Khi cồn cát này phát triển sẽ chắn dòng chính làm thay đổi dòng chảy cửa sông cho đến khi dòng chính có động năng đủ mạn ( thường vào mùa lũ) sẽ tách cồn này thành hai cồn riêng biệt, khi đó tốc độ hai dòng gần bờ chậm lại, phù sa bồi tụ sẽ nối đất liền với cồn cát. Thảm thực vật cũng biến đổi tương ứng với quá trình lấn biển, đầu tiên là thảm rừng ngập mặn phát triển ở vùng triều lầy, sau đó là quá trình ngọt hóa, vùng ven bờ sẽ phát triển các cây cối , lau , sậy và cuối cùng con người có thể cải tạo để trồng lúa.
         Hệ sinh thái vùng cửa sông là hệ sinh thái nhạy cảm và chịu nhiều ảnh hưởng của độ mặn nước biển. Phần lớn hệ sinh thái cửa sông là sinh vật biển, năng suất sinh học thuộc diện cao nhất tới 2000g/m2/năm do nguồn dinh dưỡng phong phú. Do đa dạng về môi trường sống và nhiều chất dinh dưỡng nên vùng cửa sông khá đa dạng  về loài động vật., chim ,  cá , thân mềm.
          Hiện nay, việc khai thác vùng ven biển nói chung và vùng cửa sông nói riêng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề môi trường. Do đào bới đắp đầm nuôi tôm đã làm giảm diện tích rừng ngập mặn, nơi sinh sống, cư trú, sinh nở của nhiều loài. Kết quả đa đạng loài bị suy giảm, các chức năng hỗ trợ cuộc sống của rừng ngập mặn ( chắn sóng, bảo vệ đê, nơi cư trú loài…) cũng bị giảm theo. Đây là vấn đề đã được các nhà khoa học cảnh báo nhưng vẫn diễn ra ở nhiều nơi, trong đó có nước ta.
          Nghiên cứu xa hơn về phía biển, các nhà khoa học đã đưa ra khái niệm thềm lục địa. Đây có thể coi là vùng biển nóng gần bờ với đáy biển tương đối bằng phẳng. Thềm lục địa với phạm vi rộng cỡ vài trăm kilomet tới 1.500 km. Độ dốc đáy biển ở đây rất nhỏ chỉ trong vòng vài độ. Thềm lục địa được giới hạn xa bờ có độ dốc đáy biển tăng đột ngột. Việt Nam là nước có thềm lục địa tương đối rộng lớn, ở vùng chứa đựng nhiều tài nguyên quý giá, đặc biệt là dầu khí.
     1.2.3.Băng và gian băng:
          Nước là dạng vật chất có nhiệt hóa hơi, đóng băng và nhiệt bốc hơi, ngưng kết tương đối gần nhau. Vì vậy, nước tồn tại ở 3 dạng: rắn, lỏng, hơi. Việt Nam là nước nằm ở vùng nhiệt đới nên dạng rắn của nước tự nhiên không tồn tại. Lớp phủ băng có kích thước thay đổi theo mùa rõ rệt. Mùa đông ở bán cầu nào thì độ dày lớp băng ở đấy sẽ tăng lên. Hiện nay, người ta đã xác định được những vùng có băng tuyết phủ kín quanh năm, đó là hai cực của Trái đất và vùng núi cao.
          Do sự hình thành lớp phủ băng phụ thuộc nhiều vào thời tiết, khí hậu, nên trong lịch sử trái đất đã có nhiều thời kỳ có khí hậu lạnh được hình thành nên những lớp phủ băng rộng lớn kéo dài xuống cả vùng có vĩ độ thấp. Thời kỳ này được gọi là kỳ băng hà. Theo những dấu hiệu địa chất ghi nhận được thì trong vòng 4.000 triệu năm trở lại đây có tới 10% thời gian trái đất ở vào thời kỳ băng hà. Theo kết quả nghiên cứu, trong vòng 1.000 triệu năm trở lại đây, các thời kỳ băng hà xuất hiện với chu kỳ khoảng 150 triệu năm và kéo dài trong vòng vài triệu năm. Vào thời kỳ băng hà mạnh, lớp phủ băng có thể mở rộng ra cả vùng Nam Mỹ, Châu Phi, Ấn Độ và Úc.
          Thời kỳ băng hà gần đây nhất – thời kỳ Pleistoxen thuộc kỷ thú tư, có tác động mạnh mẽ và kéo dài tới cảnh quan môi trường vùng độ cao và vùng vĩ độ trung bình.  Con người biết về thời kỳ băng hà này tương đối rõ vì có nhiều dấu hiệu, vết tích còn sót lại đến ngày nay.
          Thời kỳ Pleistoxen gồm một số pha tăng băng gắn với sự hình thành và tích lũy băng khí hạu lạnh đi. Giữa các pha băng là giai đoạn tan băng (hay còn gọi là gian băng) khi khí hậu ấm lên. Hiện vẫn còn nhiều tranh cãi về số lần tăng băng và gian băng trong thời kì này và vùng chịu ảnh hưởng của các giai đoạn này. Nhiều dấu tích địa chất cho thấy có 4 giai đoạn tăng băng và giữa chúng là ba giai đoạn gian băng. Hiện chúng ra đang ở gian băng thứ 4. Những nghiên cứu gần đây cho thấy đa số bwang thời kỳ Pleistxen đã bị tan vào thời kỳ Holoxen cách đây khoảng 10.000 năm. Tuy nhiên, lớp phủ băng vẫn còn ở hai bán cầu trên các núi cao và vùng có vĩ độ cao.
          Giai đoạn tăng băng gần đây nhất còn in đậm dấu vết lên cảnh quan hiện nay , đặc biệt ở vùng vĩ độ cao. Nếu không có giai đoạn này , có lẽ chúng ta không có nguồn tài nguyên di lịch phong phú với nhiều môn thể thao và trò chơi trên băng tuyết. Nơi đây cũng là địa bàn sinh sống của các động thực vật ưu lanh, nơi tồn trữ nguồn tài nguyênn nước ngọt lớn.
          Đã có nhiều công trình nghiên cứu về nguyên nhân xảy ra quá trình tăng băng và tan băng trên phạm vi toàn cầu. Hiện nay, nhiều nhà khoa học cho rằng, sự tan băng hay gian băng chủ yếu do nhiệt độ trái đất nóng lên hay lạnh đi. Những nhân tố đóng vai trò quan trọng đối với sự lạnh đi của trái đất là những thay đổi trong bức xạ mặt trời, thay đổi quỹ đạo trái đất, thay đổi albedo mặt đệm và khí quyển.
1.3. Khí quyển
    1.3.1.Định nghĩa
           Khí  quyển là lớp vỏ ngoài của trái đất, với ranh giới dưới là bề mặt thủy quyển,thạch quyển và ranh giới tên là khỏang không giữa các hành tinh.Khí quyển Trái đất được hình thành do sự thoát hơi nước, các chất khí từ thủy quyển và thạch quyển. Thời kỳ đầu khí quyển chủ yếu gồm hơi nước, amoniac, metan, các loại khí trơ và hidrô. Dưới tác dụng của ánh sáng, nước bị phân hủy thành oxy và hydro.Ôxy tác động với amoniac và metan tạo ra N2 và CO2. Quá trình tiếp diễn, một lượng H2 nhẹ mất vào khoảng không vũ trụ, khí quyển còn lại chủ yếu là hơi nước, N2, CO2, một ít O2..Thực vật xuất hiện trên Trái đất cùng với quá trình quang hợp, đã tạo nên một lượng ôxy và làm giảm đáng kể nồng độ CO2 trong khí quyển.Sự phát triển mạnh mẽ của động thực vật trên trái đất cùng với sự gia tăng bài tiết, phân hủy xác động thực vật, phân hủy yếm khí của vi sinh vật đã làm cho nồng độ khí N2 trong khí quyển tăng lên nhanh chóng, để đạt tới thành phần khí quyển hiện nay.
    1.3.2.Thành phần không khí của khí quyển
          Thành phần khí quyển hiện nay của Trái đất khá ổn định theo phương nằm ngang và phân dị theo phương thẳng đứng về mật độ. Phần lớn khối lượng 5.1015 tấn của toàn bộ khí quyển tập trung ở tầng thấp: tầng đối lưu và tầng bình lưu.Mặc dù chỉ chiếm khoảng 0,05% khối lượng của thạch quyển, khí quyển Trái đất có vai trò rất quan trọng đối với đời sống sinh vật trên Trái đất.Thành phần không khí của khí quyển thay đổi theo thời gian địa chất cho đến nay khá ổn định bao gồm chủ yếu là: N2, O2 và khí trơ. Mật độ của không khí thay đổi mạnh mẽ theo chiều cao, trong khi tỷ lệ các thành phần chính của không khí không thay đổi

       Bảng 2 hàm lượng trung bình của không khí
Chất khí
% thể tích
% khối lượng
Khối lượng (n.1010tấn)
N2
O2
Ar
CO2
Ne
He
CH4
Kr
N2O
H2
O3
Xe
           78,08
           20,91
            0,93
            0,035
            0,0018
            0,0005
            0,00017
0,00014
0,00005
0,00005
0,00006
0,000009
       75,51
       23,15
         1,28
         0,005
        0,00012
0,000007
        0,000009
        0,000029
        0,000008
        0,0000035
       0,000008
0,00000036
     386.480
     118.410
         6.550
            233
      6,36
     0,37
     0,43
    1,46
   0,4
    0,02
   0,35
   0,18

 1.3.3.Cấu trúc thẳng đứng của khí quyển

          Khí quyển TĐ có cấu trúc phân lớp,với các tầng đặc trưng từ dưới lên như sau: tầng đối lưu, tầng bình lưu, tầng trung quyển, tầng nhiệt quyển và tầng ngoại quyển.
                              Khoảng không giữa các hành tinh
 


                                                  Các ion
Tầng ngọai quyển

                                                                                  Không khí rất loãng
Tầng nhiệt quyển
                                          Không khí loãng
Tầng trung quyển
Tầng bình lưu
                                Khí ôzôn
Tầng đối lưu
         2000km



                                                                                                                                             500km
                                                                                                                              
  
                                                                                                                     80km
                                                                                         
                 50km
                                                 15-18km
                    0km
                                 Hình. Cấu trúc của khí quyển theo chìêu thẳng đứng
           Tầng đối lưu (Troposphere): là tầng thấp nhất của khí quyển chiếm khoảng 70% khối lượng của khí quyển,có nhiệt độ thay đổi giảm dần từ +400C ở lớp sát mặt đất tới -500C ở trên cao.Tầng đối lưu là nơi tập trung nhiều nhất hơi nước,bụi và các hiện tượng thời tiết chính như mây, mưa, bão…Đánh dấu cho ranh giới của tầng đối lưu và tầng bình lưu la một lớp có chiều dài khoảng 1km.ở đó có sự chuyển đổi từ xu hướng giảm nhiệt theo chiều cao theo xun hướng tăng nhiệt độ không khí lên cao. Lớp này gọi là lớp đối lưu hạn.
          Tầng bình lưu (Tratosphere): nằm trên tầng đối lưu, với ranh giới trên dao động khoảng độ cao 50km. Nhiệt độ không khí của tấng bình lưu có xu hướng tăng theo chiều cao,từ -560C ở phía dưới len-20C ở trên cao. Không khí tầng bình lưu loãng hơn ít chứa bụi và các hiện tượng thời tiết. Ở độ cao 25km trong tầng bìn lưu,tồn tại lớp không khí giàu ozôn thườn được gọi là tầng ozôn.Tầng ozôn có chức năng như một lá chắn khí quyển,bảo vệ cho TĐ khỏi những ảnh hưởng độc hại của tia tử ngoại từ mặt trời chiếu xuống.
          Tầng trung quyển (mesosphere): nằm ở trên tầng bình lưu cho đến độ cao 80km. Nhiệt độ tầng này gaỉm dần theo độ cao,từ -20C ở phìa dưới xuống -920C ở phía trên.Tầng trung quyển ngăn cách với tầng bình lưu bằng một lớp không khí mỏng (khoảng 1km) ở đó sự biến thiên nhiệt độ của khí quyển  chuyển từ dương sang âm gọi là bình lưu hạn.
          Tầng nhiệt quyển (thermosphere): có độ cao từ 80km toi 500km. Ở đây nhiệt độ không khí có xu hứong tăng dần -92oC tới +12000C Tuy nhiên,nhiệt độ không khí cũng thay đổi theo thời gian này. Ban ngày thường rất cao ban đêm thấp. Lớp chuyển tiếp giửa trung quyển và nhiệt quyển gọi là trung quyển hạn.
          Tầng ngoại quyển (exosphere): bắt đầu từ độ cao 500km trở lên. Nhiệt độ của tầng ngoại quyển nhìn chung có xu hướng cao và thay đổi theo thời gian trong ngày. Thành phần khí quyển trong tầng có chứa nhiều các ion nhẹ như He+,H+,O2-. Giới hạn bên ngoài của khí quyển rất khó xác định, thông thường người ta ước định vào khoảng 1000km tới 2000km.
          Cấu trúc tầng khí quyển được dình thành do kết quả của lực hấp dẫn và nguồn phát sinh khí từ bề mặt trái đất, có tác động to lớn trong việc bảo vệ và  duy trì sự sống TĐ. Hiện nay do hoạt động của con người, lớp khí quyển ôzôn có xu hướng mỏng dần, sự sống con người và sinh vật trên Trái đất đang bị đe dọa.
                              50asthenosphere
                                                                   Hình 3 thể hiện vị trí tầng của khí quyển

    1.3.4.Ôzôn khí quyển và chất CFC:
          Bức xạ mặt trời là nguồn năng lượng chủ yếu để duy trì sự sống trên Trái đất. Bức xạ đó khi truyền xuống Trái đất với một phổ sóng rất rộng. Bầu khí quyển Trái đất có tác dụng khuếch tán, hấp thụ và lọc một phần các tia bức xạ mặt trời, không cho chúng chiếu toàn bộ xuống bề mặt.
          Khí quyển chỉ để lọt xuống bề mặt các tia sóng co bước sóng từ 104 đến 106 micromet .
          Cơ chế hấp thụ tia tử ngoại của tầng ôzôn có thể trình bày theo các phương trình phản ứng sau:
                                            O2  +  Bức xạ tử ngoại                               O+ O
                                     O  +  O2                                                             O3
                                     O3  + Bức xạ tử ngoại                                   O2 +O
          Trong thực tế hiện nay, chiều dày và nồng độ ôzôn trong lớp ôzôn của Trái đất bởi các nguyên nhân xuất phát từ  hoạt động của con người. Một trong các  tác nhân quan trọng đó là khí clorofluorocacbon (CFC), metan (CH4), các khí oxit nitơ. Cơ chế tác động của CFC “dưới tác động của tia tử ngoại”:
                                  CFC +O3                    O2     +     ClO
                                  ClO   +O3                           2O2   +     Cl
                                       Cl     +O3                            ClO  +     O2
          Các phản ứng dây truyền trên diễn ra liên tục cho tới khi nguyên tử Cl hóa hợp được với H2 có trong khí quyển thành HCl và gây mưa axit.
          Khí CFC thường được sử dụng trong kỹ thuật lạnh để chạy máy điều  hòa,tủ lạnh và các hệ thống lạnh công nghiệp trên thế giới.
          Sự suy thoái tầng ôzôn trên phạm vi toàn cầu đòi hỏi phải hạn chế việc làm phát sinh ra trong khí quyển các loại khí như :  CFC, CH4, oxit nitơ…Trong đó việc hạn chế CFC là việc làm hàng đầu. Quá trình suy thoái tầng ôzôn thường diễn ra mạnh mẽ ở các vĩ độ lớn,nơi tập trung các nước phát triển.Vì vậy, chương trình ôzôn đang được sự ủng hộ mạnh mẽ về tài chính của các nước phát triển.
    1.3.5. Sol khí
          Sol khí là một thành phần quan trọng khác của khí quyển Trái đất, đó là các hạt bụi, đường kính của Sol khí dao dộng từ 10-6 đến 10-1 mm. Tương ứng với kích thước các phân tử cho tới kích thước của các hạt bụi lắng. Các hạt này sinh ra trong các quá trình tự nhiên và nhân tạo của Trái đất. Thời gian tồn tại của các hạt sol khí trong tầng trung quyển là 5-10 năm,trong tầng bình lưu là 0,5-5 năm, trong tầng đối lưu là 0,01-0,1 năm. Chính các hạt sol khí có kích thước xấp xỉ micromet là nguyên nhân làm độ trong suốt của khí quyển Trái đất và là tác nhân ảnh hưởng mạnh mẽ tới thời tiết và khí hậu.


Tổng số lượt xem trang