ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ - XÃ HỘI VỚI QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Với điều kiện tự nhiên hết sức
phong phú, đa dạng nhưng cũng rất khắc nghiệt và chế độ chiếm hữu nô lệ mang tính
chất gia trưởng hà khắc, lại bị kìm hãm bởi sự kiên cố của công xã nông thôn và
chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội khắt khe, triết học Ấn Độ đã hình thành và phát triển, với những kinh sách và các trường phái triết học nổi
tiếng như kinh Veda, kinh Upanishad, Bhagavad - gità, Ràmàyana, Mahàbhàrata, Bàlamôn
giáo, Phật giáo, trường phái triết học Sànkhya, Vais’esika, Nyàya,
Yoga, Mimàmsà, Vedànta, Jaina, Lokàyata hay Càrvàka... Triết học
Ấn Độ cổ đại luôn quan tâm đến con người và luôn đi tìm kiếm lời
giải đáp cho hàng loạt câu hỏi liên quan đến vấn đề nhân sinh như: “Con người
sinh ra từ đâu? Con người sống như thế nào? Con người trú ngụ ở đâu khi chết
đi?”[1]. Ý nghĩa tối cao của cuộc
đời con người là gì? Làm thế nào
để giải thoát (moks’a) con người khỏi nỗi khổ của cuộc đời? Chính cách đặt và giải quyết vấn đề nhân sinh như thế đã làm cho triết học Ấn Độ cổ
đại trở thành triết lý sống của người Ấn Độ, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc; vì nó không
chỉ thể hiện mong muốn của người Ấn Độ trong quá khứ và hiện tại mà còn thể hiện mơ ước của người Ấn Độ cả ở tương lai. Nó đã đem lại cho nhân
loại một cách nhìn mới về nhân sinh.
Nền triết học và tôn giáo đặc sắc
ấy không chỉ ảnh hưởng sâu đậm đến truyền thống văn hóa, đời sống tinh thần, đạo đức,
tâm linh của người Ần Độ mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến quan niệm, tư tưởng của
người dân các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Việc nghiên
cứu đặc điểm, ý nghĩa lịch sử của triết học Ấn Độ cổ đại không chỉ giúp chúng
ta có sự hiểu biết một cách hệ thống và sâu sắc hơn văn hóa của dân tộc Ấn Độ mà còn cho chúng ta thấy sự ảnh hưởng của nó đến
truyền thống văn hóa của các dân tộc khác trên thế giới.
Ở Việt Nam, hàng ngàn năm qua văn
hóa Ấn Độ nói
chung và đặc biệt là tư tưởng Phật giáo nói riêng đã ảnh hưởng khá sâu đậm đến
đời sống tinh thần, đạo đức, tôn giáo của dân tộc ta. Văn hóa Ấn Độ đã góp phần tạo nên một
trong những yếu tố trong truyền
thống văn hóa dân tộc Việt Nam. Vì vậy, tìm hiểu, nghiên cứu làm rõ nội dung và đặc điểm triết
học Ấn Độ cổ đại, giúp chúng ta có sự hiểu biết sâu sắc hơn truyền
thống, bản sắc văn hóa dân tộc ta.
Không những thế, nghiên cứu triết
học Ấn Độ cổ đại còn cho chúng ta có được một cách nhìn toàn diện và hệ
thống về lịch sử phát triển tư tưởng triết học của nhân loại; từ đó, góp
phần giúp chúng ta rèn luyện tư duy lý luận, vươn tới đỉnh cao của khoa học, như
Ph. Ăngghen đã từng nói: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học
thì không thể không có tư duy lý luận”[2],
“nhưng tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người
ta mà thôi. Năng lực ấy cần phải được hoàn thiện, và muốn hoàn thiện nó thì cho
tới nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời
trước”[3]. Vì thế, tôi chọn vấn đề Triết
học Ấn Độ cổ đại - nội dung, đặc điểm và ý
nghĩa lịch sử làm đề tài luận
án tiến sĩ triết học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể khái quát các công trình
nghiên cứu về nội dung, đặc điểm và ý nghĩa lịch sử của triết học Ấn Độ
cổ đại thành ba chủ đề chính.
Chủ đề thứ nhất, đó là các công trình nghiên cứu về triết học
Ấn Độ cổ đại trong tổng thể quá trình lịch sử và văn hóa Ấn Độ, như các công trình: Our Oriental Heritage (Di sản phương Đông của chúng ta) của Will Durant, do Simon and
Schuster, New York, 1954, với Quyển 2 có tựa đề Ấn Độ và những người láng giềng của mình (India and Her Neighbors)
đã trình bày, phân tích khá sâu sắc về lịch sử văn minh Ấn Độ trên các lĩnh vực
như địa lý, dân cư, lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội, phong tục, tập quán, tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, kiến trúc,.. trong đó có triết
học, tôn giáo Ấn Độ; hay tác phẩm The
Discovery of India (Phát hiện Ấn Độ), 3 tập của Jawaharlal Nehru, do The
Oxford University Press, New Delhi, India, 1954. Tuy đây không phải là những công trình
chuyên về triết học nhưng trên nền tảng lịch sử và văn hóa chung, các tác giả trên cũng đã trình
bày và đưa ra những đánh giá, những nhận định khá sâu sắc về đặc điểm của triết
học Ấn Độ.
Chủ đề thứ hai, đó là các công trình nghiên cứu về quá trình
hình thành, phát triển và những đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại, như những công
trình: Indian Philosophy của S.
Radhakrisnan, do New York, The Machillan, 1951; và The Oxford University Press, New Delhi, India,1956; Six Systems of Indian
Philosophy của Max Muller, do
Bhavan’s book University, 1899; Đại
cương triết học phương Đông của
Minh Chi và Hà Thúc Minh, Ban xuất bản Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh, 1993; Nhập môn triết học Ấn Độ
của Lê Xuân Khoa, Trung tâm học liệu, Bộ giáo dục, Sài Gòn, 1972; Lịch sử triết học Ấn Độ của Thích Mãn
Giác, Ban tu thư Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1967; Lịch sử triết học Ấn Độ cổ đại của Doãn Chính - Lương Minh Cừ, Nxb.
Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, 1991, Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ của Doãn Chính, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997… Các công trình trên đã đi sâu làm rõ nội dung của
các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại, qua đó đã đánh giá và rút ra những đặc điểm của
nó, khá sâu sắc.
Chủ đề thứ ba, đó là các công trình nghiên cứu từng trào
lưu, từng loại kinh sách triết học tôn giáo Ấn Độ. Trong đó phải kể đến các
công trình như: A Sourcebook in Indian
Philosophy, do Sarvepalli Radhakrishnan và Charles A. Moore biên soạn,
Princeton University Prees, Princeton New Jersey, 1973, gồm các phần: Thời kỳ Veda
(kinh Veda, kinh Upanishad), thời kỳ Anh hùng ca (Bhagavad-gità, Mahàbhàrata,
Luật Manu, Artha-sàstra của Kautilya), Hệ thống triết học tôn giáo không chính
thống (Càrvàka, Jainism, Buddhism), Hệ thống triết học tôn giáo chính thống (Nyàya,
Vaisesika, Sànkhya, Yoga, Pùrva Mimàmsà, Vedànta); The
Upanishas, 4 vol, do Bonanaza Books, New York, xuất bản năm 1949, 1953,
1956, 1959; The Bhagavad gita, của S. Radhakrisnan, Allen và Unwin, London, xuất
bản năm 1953; Áo nghĩa thư Uphanisshad,
An Tiêm, Sài Gòn, 1972, Shri Aurobindo bình giải; Nguyên thủy Phật giáo tư tưởng luận của Kimura Taiken, Vạn Hạnh,
Sài Gòn, 1969; Tiểu thừa Phật giáo tư tưởng luận của Kimura
Taiken, Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1969; Đại thừa
Phật giáo tư tưởng luận của
Kimura Taiken, Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1969…
Những công trình trên đã đi sâu vào nội dung của từng trường phái hoặc từng
loại kinh sách, với những vấn đề triết học cụ thể như bản thể luận, nhận thức
luận, đạo đức nhân sinh của triết học Ấn Độ cổ đại, từ đó giúp chúng ta có sự hiểu biết sâu sắc và toàn diện hơn những đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án: Từ sự
trình bày khái quát quá trình hình thành, phát triển và nội dung cơ bản của
triết học Ấn Độ cổ đại, luận án nhằm làm
rõ những đặc điểm và ý nghĩa lịch sử
của nó trên các mặt tư tưởng, tôn giáo và đạo đức, trong đời sống văn hóa
tinh thần của dân tộc Ấn Độ.
Nhiệm vụ của luận án:
Một là, trình bày, phân tích làm rõ
những đặc điểm điều kiện tự nhiên và điều kiện lịch sử - xã hội; sự phát triển
của các thời kỳ văn minh và các thành tựu về văn hóa, khoa học cổ Ấn Độ tác
động, ảnh hưởng, chi phối đến qúa trình hình thành, phát triển; đặc biệt là đến
nội dung và đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại.
Hai là, trình bày quá trình hình thành,
phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại với những nội dung tư tưởng cơ bản của
các trường phái triết học cổ Ấn Độ, qua hai thời kỳ thời kỳ Véda - Sử thi hay
Veda - Anh hùng ca và thời kỳ Cổ điển hay thời kỳ Phật giáo, Bàlamôn giáo.
Ba là, từ những nội dung tư tưởng của
các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại, luận án đánh giá chỉ ra những đặc điểm
chủ yếu và rút ra ý nghĩa lịch sử của nó cả về mặt lý luận và thực tiễn, trên
các phương diện tư tưởng, tôn giáo và vấn đề đạo đức nhân sinh của dân tộc Ấn
Độ, qua đó nêu lên một số hạn chế của nó.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Luận án không nghiên cứu toàn bộ lịch sử triết
học Ấn Độ nói chung, mà chỉ tập trung nghiên cứu nội dung, đặc điểm và ý nghĩa
lịch sử của triết học Ấn Độ thời kỳ Veda - Sử thi hay thời kỳ Veda - Anh hùng
ca (khoảng từ thế kỷ XV trước CN đến thế kỷ VI trước CN) và thời kỳ Phật giáo -
Bàlamôn giáo (từ thế kỷ VI trước CN đến thế kỷ thứ III sau CN).
5. Cơ sở
lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận
án dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của triết học mác xít,
đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích và tổng
hợp, lô gích và lịch sử, quy nạp và diễn dịch, trừu tượng hóa, khái quát hóa,
đối chiếu, so sánh và phương pháp văn bản học để nghiên cứu và trình bày luận
án. Luận án được tiếp cận đưới góc độ triết học lịch sử và giá trị học.
6.
Cái mới của luận án
Một là, luận án đã trình bày làm rõ quá trình hình thành, phát triển của triết
học Ấn Độ cổ đại, một cách hệ thống, với các giai đoạn phát triển và những
nội dung của các kinh sách, các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại.
Hai là, luận án đã phân tích làm rõ những đặc điểm và ý nghĩa lịch sử của
triết học Ấn Độ cổ đại đối với đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Ấn Độ; đó
là ý nghĩa về mặt tư tưởng, tôn giáo và đạo đức.
7. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
của luận án
Về ý nghĩa khoa học: Việc tìm hiểu, nghiên cứu làm rõ những nội dung, đặc điểm và ý nghĩa
lịch sử của triết học Ấn Độ cổ đại, giúp người đọc có sự hiểu biết một cách hệ
thống, cơ bản và sâu sắc hơn về triết học Ấn Độ cổ đại nói riêng và về nền văn
hóa của Ấn Độ nói chung.
Về ý nghĩa thực tiễn: Việc nghiên cứu triết học Ấn Độ cổ đại một cách hệ thống và cơ bản cả
về nội dung, đặc điểm và ý nghĩa lịch sử, không chỉ giúp chúng ta thấy rõ sự
ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ nói chung và của Phật giáo nói riêng đối với nền
văn hóa của dân tộc ta, mà qua đó còn giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn,
với lòng tự tôn dân tộc và tinh thần khoan dung văn hóa, dân tộc Việt Nam đã
tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa giá trị của nhiều nền văn hóa trên thế
giới, trong đó có văn hóa Ấn Độ như thế nào, để từ đó làm phong phú và sâu sắc
nền văn hóa dân tộc ta trong lịch sử.
8. Kết cấu cơ bản của
luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết
luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 200 trang được kết
cấu thành 3 chương, 6 tiết và 15 tiểu tiết.
Chương 1
KHÁI QUÁT
ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH,
PHÁT TRIỂN
CỦA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
Là một trong những hình thái ý thức
xã hội, triết học Ấn Độ ra đời và phát triển tất yếu bị chi phối và phản ánh
những đặc điểm của điều kiện sống và tính chất sinh hoạt xã hội Ấn Độ, như C.
Mác đã nói: “Chính con người, khi phát triển sự sản xuất vật chất và sự giao
tiếp vật chất của mình, đã làm biến đổi, cùng với hiện thực đó của mình, cả tư
duy lẫn sản phẩm tư duy của mình. Không phải ý thức quyết định đời sống mà
chính đời sống quyết định ý thức”[4].
1.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ
ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ - XÃ HỘI VỚI QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA
TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
1.1.1. Điều kiện tự nhiên của Ấn Độ cổ với quá trình hình
thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại
Có thể nói, triết học Ấn Độ cổ đại hình
thành và phát triển trong điều kiện sống hết sức đa dạng,
phong phú và phức tạp. Đó là một đất
nước rộng lớn với cư dân, phong tục, tập quán, ngôn ngữ và cả sinh hoạt xã hội đa dạng. Đó cũng là một đất nước có điều kiện tự nhiên, khí hậu hết sức phong phú: có những miền núi
cao quanh năm tuyết phủ như Himalaya, có vùng cao nguyên
khô cằn như Deccan và đại dương mênh mông như Ấn Độ dương, nhưng cũng có
những vùng đồng bằng màu mỡ
như đồng bằng Ấn - Hằng với các con sông lớn như sông Ấn (Indus), sông Hằng (Ganga), là cái nôi của nền
văn minh tối cổ của Ấn Độ - văn minh sông Ấn từ thiên niên kỷ thứ III trước CN,
là nơi hình thành chế độ nô lệ ở Ấn Độ và một nền văn hóa cổ truyền, kết
quả sự tiếp biến, dung hợp giữa nền văn hóa bản địa (người Dravidian, Munda,
Naga) với nền văn hóa của
người Aryan, tạo ra nền văn minh mới - nền văn
minh Veda rực rỡ.
Tóm lại, với những điều kiện địa lý, khí
hậu và tự
nhiên đa dạng,
huyền bí, khắc nghiệt và đầy uy lực, vốn là cái nôi sinh ra và che chở con người
từ thuở ban sơ, nhưng cũng luôn là áp lực đè nặng lên đời sống con người, đã tác động thường xuyên, lâu
dài đến phong tục, tập quán, tâm lý, tín ngưỡng, tôn giáo và cả quan điểm tư tưởng
của người Ấn Độ cổ. Những đặc điểm, điều kiện địa lý, tự nhiên,
khí hậu đó tất yếu đã ảnh hưởng đến quá trình hình thành, đến nội dung và đặc
điểm của triết học Ấn Độ cổ đại. Người Ấn Độ cổ luôn ước mơ một
cuộc sống an lành và hạnh phúc; nhưng trước điều kiện sống khắc nghiệt họ hoặc phải
dựa vào sự che chở bởi sức mạnh, quyền uy của các lực lượng siêu nhiên do sự thần thánh hóa các thế lực của tự nhiên và xã hội mà thành; hoặc đi tìm
giá trị cuộc đời trong thế giới nội tâm, trong tinh thần, đạo đức, tâm
linh con người.
1.1.2. Điều kiện lịch sử - xã hội Ấn Độ cổ với quá trình
hình thành và phát triển triết học Ấn Độ cổ đại
Quá trình hình thành, phát triển
và những nội dung, đặc điểm của triết học Ấn Độ còn bị chi phối bởi tính chất đặc
biệt của điều kiện lịch sử - xã hội Ấn Độ cổ đại. Đó chính là chế độ nô lệ mang
tính chất gia trưởng, lại bị kìm hãm bởi sự kiên cố của công xã nông thôn cùng
với chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội hết sức khắc nghiệt - chế độ varna. Chế độ
nô lệ ở Ấn Độ cổ đại hình thành trong quá trình người Aryan làm cuộc di thực, xâm nhập và chinh phục Ấn Độ từ giữa thiên niên kỷ II trước
CN. Theo bộ luật Manu người ta chia nô lệ Ấn Độ ra làm 15 loại, như: nô lệ do
cha mẹ nô lệ sinh ra, nô lệ mua về, nô lệ thừa kế, do phạm tội bị phạt làm nô lệ,
nô lệ chiến tù, nô lệ được thưởng trong các cuộc thách đấu, nô lệ tự nguyện, vì bội ước mả phải làm nô lệ, nô lệ tạm thời, bán mình làm nô lệ... Người chủ nô không chỉ có
quyền hành tuyệt đối đối với nô lệ mà còn đối với cả các thành viên trong gia đình. Chế độ nô lệ
ở Ấn Độ cổ là chế độ xã hội chưa đạt tới trình độ phát triển thành thục như ở
Hy Lạp - La Mã cổ đại, lại mang tính gia trưởng và bị kìm hãm bởi sự kiên cố của
công xã nông thôn, “nhờ vào mối liên hệ có tính chất gia trưởng trong tổ chức, phân công lao động giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp”[5],
làm cho nền kinh tế mang nặng tính chất tự nhiên, tự cấp, tự túc và do đó làm cho xã hội hết sức bảo thủ, trì trệ, đã trói buộc
con người với quy tắc xã hội cổ truyền, với chế độ chuyên chế phương Đông.
Cùng
với chế độ nô lệ mang tính chất gia trưởng, xã hội Ấn Độ còn bị đè nặng bởi sự
phân biệt đẳng cấp hà khắc. Theo Rig - Veda và bộ luật Manu
chế độ phân biệt đẳng cấp được phân thành bốn đẳng cấp chính: đẳng cấp Bàlamôn (Bràhmin), đẳng cấp vương công, võ
sĩ (Kshatriya), đẳng cấp thương nhân, điền chủ (Vaishya) đẳng cấp nô lệ
(Shudra) và tầng lớp cùng đinh, hạ đẳng (Paria). Chế độ phân biệt đẳng cấp ở Ấn Độ không chỉ được
giáo lý đạo Bàlamôn biện hộ mà còn được pháp luật nhà nước bảo vệ; nó không chỉ
là sự phân biệt địa vị xã hội mà còn là sự phân biệt về chủng tính, nghề nghiệp, tôn
giáo, hôn nhân, giao tiếp có giá trị, ý nghĩa tôn giáo và đạo đức thiêng liêng của con
người.
Tóm lại, nếu như trong quan hệ
với tự nhiên, đứng trước những lực lượng tự nhiên đầy khắc nghiệt và huyền bí,
luôn gây ra cho con người những tai họa bất trắc, thì trong quan hệ xã hội, với chế độ xã
hội hết sức hà khắc, người Ấn Độ cổ cảm thấy cuộc đời đầy đau khổ. Mơ ước giải
thoát khỏi nỗi khổ của cuộc đời đã trở thành khát vọng của người Ấn Độ. Do vậy,
hầu như các trường phái triết học, tôn giáo xuất hiện thời kỳ này đều tập trung
vào lý giải căn nguyên và tìm con đường để giải thoát con người khỏi nỗi khổ. Chính những đặc điểm điều kiện trên đã chi phối nội dung và đặc điểm của triết học Ấn
Độ cổ đại.
1.2.
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN VĂN MINH VÀ CÁC THÀNH TỰU VỀ VĂN HÓA, KHOA HỌC CỔ ẤN ĐỘ VỚI
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
1.2.1. Sự phát triển của nền văn minh
cổ Ấn Độ với quá trình hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại
Quá trình
phát sinh, phát triển và những nội dung, đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại
không chỉ nảy sinh và mang đậm dấu ấn điều kiện tự nhiên và xã hội của đất
nước Ấn Độ cổ mà nó còn phản ánh và dựa trên nền tảng của nền văn minh
Ấn Độ cổ - trình độ phát triển về các phương diện giá trị vật chất, kỹ thuật
đặc sắc. Đó là “sự phát triển một cách kỳ diệu lạ thường và đáng
khâm phục của một nền văn minh”[6], từ
thời kỳ văn minh sông Ấn (thiên
niên kỷ III tr. CN) qua nền văn minh
Veda - Sử thi (khoảng thế kỷ XV
tr. CN - thế kỷ VI tr. CN), đến thời
kỳ Phật giáo - Bàlamôn giáo
(thế kỷ VI tr. CN - thế kỷ III sau CN). Xã hội cũng như nền văn minh Ấn
Độ cổ trải qua các thời kỳ với những sự kiện, trình độ và thành tựu
hết sức rực rỡ, độc đáo, là một trong những cơ sở ảnh hưởng, chi phối quá
trình hình thành, phát triển của tư tưởng triết học Ấn Độ.
1.2.2. Những thành tựu về văn hóa và khoa học cổ Ấn Độ với
quá trình hình thành, phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại
Là hình thái ý thức xã hội, nội dung, đặc điểm
của triết học Ấn Độ cổ đại không chỉ bị chi phối, phản ánh điều kiện tự nhiên
và tính chất sinh hoạt xã hội Ấn Độ cổ, mà còn dựa trên tiền đề khoa học và văn
hóa - tổng hợp những giá trị vật chất và tinh thần mà người Ấn Độ đã sáng tạo
nên qua quá trình hoạt động thực tiễn lâu dài trong lịch sử, khá phong phú và độc
đáo trên tất cả các lĩnh vực như: thiên
văn học, toán học, y học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật, âm nhạc, điêu khắc, kiến
trúc... Sự phát triển của
nền văn minh Ấn Độ là nền tảng để triết học Ấn Độ nảy sinh và phát triển; còn
những thành tựu về văn hóa và khoa học ở Ấn Độ cổ là những tiền đề, những tư liệu
quý báu để từ đó người Ấn Độ khái quát lên thành những tư tưởng triết học, với
những quan niệm về thế giới và nhân sinh đặc sắc của mình.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Quá
trình hình thành, phát triển cũng như nội dung, đặc điểm của tư tưởng triết
học Ấn Độ cổ đại là sự phản ánh, chịu sự quy định đậm nét bởi điều kiện tự
nhiên, điều kiện khí hậu hết sức đa dạng, khắc nghiệt cùng với sự chi phối
và ảnh hưởng sâu sắc bởi điều kiện lịch sử - xã hội Ấn Độ cổ đại. Trong
đó, đặc biệt là chế độ nô lệ mang tính chất gia trưởng hà khắc, lại bị kìm hãm
bởi công xã nông thôn, với sự khép kín về địa bàn cư trú, về dân cư, về tổ chức
hành chính và nền kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp, bảo thủ, trì trệ và chế độ
phân biệt đẳng cấp xã hội - chế độ
varna, là sự phân biệt về chủng tính, sắc tộc, về hôn nhân, nghề nghiệp, về tôn
giáo và cả về sự giao tiếp hết sức khắt khe.
Không những thế, quá trình hình
thành, nội dung và đặc điểm của triết học Ấn Độ còn dựa trên một cơ sở, một
tiền đề khác hết sức quan trọng, đó là sự phát triển đặc sắc của nền văn minh Ấn
Độ cổ đại, qua các thời kỳ lớn như: thời kỳ văn minh sông Ấn, thời kỳ văn minh
Veda - Sử thi, thời kỳ Phật giáo và Bàlamôn giáo, với các thành tựu khoa học và
văn hóa nổi bật trên các lĩnh vực như: thiên văn học, lịch pháp, toán học, y học,
văn học, nghệ thuật, điêu khắc, kiến trúc...
Tất cả những điều đó luôn tác động, ảnh hưởng và ghi dấu ấn sâu đậm
đến đời sống vật chất và đời sống tinh thần, đến cách thức sinh hoạt và dân cư,
đến quan niệm, tư tưởng, đến phong tục, tập quán, ngôn ngữ, tín ngưỡng, tôn
giáo, đến quá trình hình thành, nội dung, đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại.
Chương 2
NỘI
DUNG CƠ BẢN CỦA
TƯ
TƯỞNG TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
Có thể phân chia quá trình hình thành, phát triển của
triết học tôn giáo Ấn Độ cổ đại thành hai thời kỳ:
2.1. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ẤN
ĐỘ THỜI KỲ VEDA - SỬ THI (khoảng từ thế kỷ XV đến thế kỷ VI tr. CN)
Niên đại của thời kỳ này được xác
định khoảng từ thế kỷ thứ XV trước Công nguyên đến thế kỷ thứ VI trước Công
nguyên. Thời kỳ Veda - Sử thi là thời kỳ người Aryan xâm nhập Ấn Độ, tạo nên
cuộc dung hợp văn hóa của người Aryan với nền văn hóa của người bản địa
Dravidian, hình thành nên một nền văn minh mới - nền văn minh Veda. Trên cơ sở
đó, tư tưởng triết học Ấn Độ hình thành và phát triển, thể hiện trong kinh
Veda, kinh Upanishad và các cuốn sử thi lớn như Ràmàyana và Mahàbhàrata.
2.1.1.Tư tưởng triết học trong kinh
Véda
Kinh Véda là những bộ kinh cổ nhất của Ấn Độ. “Véda ” bắt nguồn từ căn tự
“vid” nghĩa đen là “tri thức”, “hiểu biết”, nó không phải là những lời mặc
khải của thần linh cho con người và cũng không phải do một nhân vật nào
sáng tác, nó là một bộ sách thâu lượm tất cả những câu ca dao, vịnh phú, những
quan điểm, tập tục, lễ nghi … của các bộ lạc người Aryan ở nhiều địa phương dọc
theo sông Ấn (Indus), sông Hằng (Gange) và chân núi Hymalaya. Một thời gian dài
các bộ kinh ấy đã được truyền khẩu từ thế hệ này qua thế hệ khác. Khoảng năm
1000 đến năm 800 trước CN nó mới được sưu tập chép lại bằng một thứ tiếng Phạn
cổ. Có thể nói kinh Veda là một tác phẩm có tính hỗn hợp và người ta có nhiều
cách phân chia. Theo nghĩa hẹp Véda gồm có bốn tập thánh kinh chủ yếu: 1. Rig - Véda, trong đó “rig” có nghĩa là
“ca ngợi”, “veda” có nghĩa là “tri thức”, nên nó có nghĩa là tri thức
về thánh ca. Nó gồm 1082 bài, là kinh dùng để cầu nguyện, ca ngợi công đức
các bậc thần linh, trong đó có hai vị thần được nhắc đến nhiều nhất là thần Lửa
Agni và thần Sấm sét Indra. Kinh này chuyên dùng cho bậc “Khuyến thỉnh sư”
(Hotri); 2. Sama -Véda: Tri thức về
các giai điệu ca chầu khi hành lễ, gồm 1.549 bài, là bộ sưu tập những bài ca, vần
điệu ca ngợi thần linh. Kinh này chuyên dùng cho các bậc “Ca vinh sư” (Udgrat);
3. Yajur- Véda: Tri thức về các lời
khấn tế, những công thức, lễ nghi trong lễ hiến tế. Còn gọi là “Tế tự Véda”,
chuyên dùng cho các “Hành lễ sư” (Adhvaryn); 4. Atharva -Véda: Tách riêng ra với bộ ba trên, gồm 731 bài văn vần,
là những lời khấn bái mang tính bùa chú, phù phép, ma thuật.
Véda còn gồm có các bộ phận muộn
hơn là kết quả bình chú, chú giải kinh Veda về các mặt lễ nghi tôn
giáo và triết lý mà có như: 1) Brahmana:
gọi là Phạn chí, hay kinh Bàlamôn; 2) Aranyaka:
(Kinh rừng) giải thích ý nghĩa huyền bí của những nghi lễ Véda; 3) Upanishad: là những kinh sách bình chú
giải thích ý nghĩa triết lý sâu xa của tư tưởng thần thoại, tôn giáo Véda.
Đứng trước các hiện tượng
tự nhiên, xã hội, con người đa dạng và huyền diệu người Ấn Độ đã
sáng tạo ra thế giới các vị thần để lý giải các hiện tượng đó,
nhằm thỏa mãn cả về mặt nhận thức và về mặt tâm lý con người. Dó đó, có thể nói thế giới quan thần
thoại tôn giáo mang tính chất đa thần tự nhiên là thế giới quan đặc
trưng của kinh Veda. Nhưng càng về sau, trong kinh Véda quan niệm tự
nhiên về các vị thần linh đa dạng mà đồng điệu nhau, biểu tượng cho các hiện tượng
tự nhiên phong phú đã dần mờ nhạt. Thay vào đó, đó là cách giải thích căn
nguyên và bản chất của vũ trụ, vạn vật bằng một nguyên lý có tính trừu
tượng và khái quát hơn, như Prajàpati,
Brahman, Purusa…
Tuy còn hết sức trực quan và mang dấu ấn
của thế giới quan thần thoại, tôn giáo nhưng điều quan trọng nhất là từ những
cái riêng lẻ, cụ thể, triết lý Ấn Độ đã vạch ra được cái chung, cái bản chất với
nguyên lý trừu tượng để giải thích về căn nguyên của vũ trụ. Đó cũng là xu hướng tất yếu của
tư tưởng triết học Ấn Độ sau này. Trong đó, nó chủ yếu tôn sùng ba vị thần: đó
là thần Sáng tạo Brahmà, thần Hủy diệt Shiva và thần Bảo vệ Vishnu, như trong
kinh Upanishad, trong Bhagavad - gità. Ba vị thần, ba xu hướng nhưng thực chất
chỉ là sự thể hiện của một quá trình của vũ trụ. Sáng tạo là để bảo tồn rồi hủy
diệt, hủy diệt để sáng tạo rồi bảo tồn, bảo tồn để hủy diệt rồi sáng tạo.
2.1.2.Tư tưởng triết học trong
kinh Upanishad
Upanishad là một
trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh Véda. Nó là những lời bình giải
tôn giáo triết học cổ Ấn Độ về các lẽ thiết yếu, về các ý nghĩa triết lý sâu xa
của các bài kinh, các nghi lễ cũng như các bản thần thoại Véda, được biên soạn
qua nhiều thế kỷ (khoảng từ thế kỷ X đến thế kỷ V trước CN), bởi các tông phái
trong những hoàn cảnh, địa phương khác nhau.
Upanishad có nghĩa là ngồi
trang nghiêm lĩnh hội lý thuyết cao siêu với thầy vì “shad” có nghĩa là “ngồi”,
“upa” nghĩa là “gần”, “ni” có nghĩa là “trang nghiêm”. Upanishad có tới hơn 200
bài kinh. Sự xuất hiện của Upanishad là bước
chuyển từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo sang tư duy triết học.
Về bản thể luận, trả lời
câu hỏi, cái gì là thực tại cao nhất, là căn nguyên của tất cả mà khi nhận thức
được nó, người ta sẽ nhận thức được mọi cái còn lại và có thể giải thoát được
linh hồn khỏi sự lo âu khổ não của đời sống trần tục và sự ràng buộc của thế giới
hiện tượng biến ảo, vô thường. Upanishad đã đưa ra một cách giải đáp duy tâm rằng:
bản nguyên của thế giới này là “Linh hồn vũ trụ tối cao” Brahman, là thực tại tuyệt đối, tối cao, trừu tượng,
huyền diệu, tinh khiết, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới sinh ra và nhập về với nó sau khi tiêu
tan.
Linh hồn cá nhân (Àtman) chỉ
là sự biểu hiện của “Linh hồn tối cao” trong là cái “vỏ bọc” là thể xác, nên
về bản chất linh hồn là đồng nhất với “Linh hồn tối cao”. Trong vũ trụ, từ cái
vô cùng lớn đến cái vô cùng nhỏ, đều là sự biểu hiện của một cái tối cao, tuyệt
đối, duy nhất Brahman. Vì Àtman “linh hồn” là cái tồn tại trong thể xác con
người, nên con người lầm tưởng rằng linh hồn, “cái ngã” là cái khác với “Linh hồn
vũ trụ”, khác với nguồn sống không có sinh, không có diệt của vũ trụ. Những ý
chí, dục vọng và hành động của con người nhằm thỏa mãn những ham muốn đã gây ra
những hậu quả, giam hãm linh hồn bất tử vào hết thể xác này đến thể xác
khác, không đồng nhất với chân bản của mình là Brahman được, gọi là nghiệp
báo (karma) và luân hồi (samsara).
Muốn giải thoát linh hồn bất tử
khỏi vòng vây hãm của nghiệp báo, luân hồi, thoát khỏi sự chi phối của đời sống
nhục dục và của thế giới hiện tượng cảm tính như ảo ảnh (màyà), thường biến, để
đạt tới sự đồng nhất với “Tinh thần vũ trụ tối cao, tuyệt đối”, con người phải
toàn tâm tu luyện đạo đức (karma-yoga)
và rèn luyện trí tuệ trực giác (prajna-yoga),
con người mới nhận ra chân bản của mình, khi đó linh hồn bất tử mới đồng nhất
được với “Linh hồn vũ trụ tối cao”, giải thoát (moks’a).
Để nhận thức được bản thể
tuyệt đối tối cao đó, Upanishad chia nhận thức của con người thành hai
trình độ khác nhau: hạ trí (aparà-vidya)
và thượng trí (parà-vidya). Hạ trí
là tri thức phản ánh những sự vật, hiện tượng riêng lẻ, có hình tướng, danh sắc
đa dạng của hiện thực, gồm các tri thức khoa học thực nghiệm, các ngành nghệ
thuật. Thượng trí là trình độ vượt qua tất cả thế giới hiện tượng hữu hình, hữu
hạn, thường biến, để nhận thức một thực tại tuyệt đối, duy nhất, bất diệt (aksara), là bản chất của tất cả những
cái đang tồn tại. Tuy nhiên, hạ trí cũng có vai trò là phương tiện cần thiết
đưa người ta tới thượng trí.
Cùng với kinh Véda, tư tưởng
triết lý của kinh Upanishad đã trở thành hệ tư tưởng chính thống thống trị
trong đời sống tinh thần xã hội Ấn Độ cổ đại. Nó ảnh hưởng, chi phối đến hầu hết
quan điểm của các trường phái triết học Ấn Độ sau này. Không những thế, tư tưởng
duy tâm tôn giáo của Upanishad đã đóng vai trò là cơ sở triết lý cho đạo
Bàlamôn ở Ấn Độ.
2.1.3.Tư tưởng triết
học trong Ràmàyana và Mahàbhàrata
Tư tưởng triết học trong bộ sử thi
Ràmàyana: Ràmàyana nói về những kỳ tích của
Hoàng tử Rama, một mẫu hình cổ điển của người anh hùng thuộc đẳng cấp võ sĩ
Kshatriya. Rama đã từng chịu đựng nhiều nỗi oan nghiệt của cuộc đời, vì danh dự
của đẳng cấp võ sĩ, vì bổn phận (dharma)
mà từ bỏ cuộc sống vương giả, cùng với người em trai cùng cha khác mẹ và tướng
khỉ Hanuman vượt qua mọi thử thách của thiên nhiên cũng như những mưu mô ác độc
của con người và ma quỷ, để chiến thắng tất cả và trở về với ngôi vương
của mình. Sita đã từng theo Rama đi đày suốt mười bốn năm trong rừng và bị quỷ
Ravana mười đầu bắt cóc về giam giữ, ép làm vợ tại đảo Lanka. Nhưng trong cuộc
chiến đấu cuối cùng với chính mình, Rama lại bị gục ngã trước sức mạnh hiểm độc
của lòng ghen tuông, đố kỵ ám ảnh. Khi Rama kịp nhận ra lỗi lầm của mình thì sự
tình đã quá muộn. Vì quá thất vọng trước tình đời đen bạc Sita đã kêu gọi nữ thần
Đất mẹ giang rộng đôi tay đón nàng trở về nơi mình đã sinh ra.
Tư tưởng chủ yếu như dấu son
trong Ràmàyana đó là ý nghĩa triết lý đạo đức - nhân sinh trong quan niệm của
người Ấn Độ cổ về con người và về phẩm chất, giá trị và bổn phận tự
nhiên của con người. Rama và Sita là tấm gương điển hình của triết lý nhân sinh
lý tưởng của người Ấn Độ cổ. Đức hy sinh, lòng quả cảm theo bổn phận, theo đạo
lý một cách tự nhiên, vô tư, nhiệt thành, không bị mê hoặc bởi nhục dục và sự
quyến rũ của thế giới hiện tượng như ảo ảnh của Rama là bài học sống động cho ý
nghĩa cuộc sống của người Ấn Độ. Còn lòng thủy chung, can đảm và nhân từ của
Sita trong gian nan, đau khổ lại là một bậc đức hạnh, thánh thiện đứng hàng đầu
cái thiện của con người.
Tư tưởng triết học trong bộ sử thi Maahàbhàrata: Mahàbhàrata có nghĩa là “Đại
thi tập về cuộc chiến tranh của dòng họ Bharata”, gồm 110.000 câu thơ đôi.
Nội dung cơ bản của tác phẩm nói về trận chiến đấu 18 ngày đêm, trên cánh đồng
Kurukshetra, tại vùng đồng bằng sông Hằng, cách New Delhi ngày nay khoảng 90km
về phía Đông Bắc, giữa một bên là một trăm anh em dòng họ Kaurava với bên kia
là năm hoàng tử Pandava. Hai bên đều là thân tộc, con cháu của Bharata, chỉ vì
giành giật đất đai, quyền hành mà dứt tình đồng tộc đến mức dốc hết cả lực lượng
ra tử chiến. Bên cạnh nội dung chính của câu chuyện chỉ chiếm một phần tư độ
dài của tác phẩm, bộ sử thi đã lắp ghép rất nhiều những sự tích thần linh, truyện
ngụ ngôn, những ẩn dụ triết học và châm ngôn xử thế.
Phần lắp ghép quan trọng nhất
là tác phẩm triết học nổi tiếng Bhagavad gità (Chí tôn ca) được đưa vào toàn bộ
quyển VI, vốn là lời khuyên bảo dài 700 câu thơ của người đánh xe Krishna, hóa
thân của thần Vishnu, giảng giải cho dũng sĩ Arjuna về bản chất của thế giới và
linh hồn, về lẽ trời (dharma), về
trách nhiệm, bổn phận theo đạo tự nhiên, cao cả của con người, trong đêm trước
trận quyết chiến với 100 anh em dòng họ Kaurava. Muốn vậy người ta phải nhận thức
được rằng, cái thiết yếu nhất trong mỗi con người không phải là tình cảm, ý muốn,
dòng máu, thân tộc hay sống chết mà chính là linh hồn bất tử. Linh hồn bất tử trong
mỗi chúng sinh với thể xác, hình hài cụ thể, cảm tính, hữu hình, luôn biến đổi
chỉ là sự hiện thân khác nhau của cùng một cái duy nhất, tuyệt đối, tối cao, bất
diệt, là bản thể của tất cả mọi cái đang tồn tại, đó là “Linh hồn tối cao”. Người
ta cần phân biệt đâu là thế giới hiện tượng, thường biến như ảo ảnh (màyà) và đâu là bản thể chân thực, tuyệt
đối, vĩnh viễn của tất cả những cái hữu hình, hữu hạn, thường biến đó, mà rèn
luyện trí tuệ (prajna-yoga), tu luyện
đạo đức, hành động trong sáng, vô tư, nhiệt thành, không vụ lợi (karma-yoga) cùng với lòng tin yêu Đấng tối
cao (bhakti-yoga) mới đạt được sự
siêu thoát. Do đó Bhagavad-gità đã trở thành bộ kinh có tính phổ biến nhất của
đạo Hinđu.
2.2. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ
THỜI KỲ CỔ ĐIỂN HAY THỜI KỲ PHẬT GIÁO, BÀLAMÔN GIÁO (từ thế kỷ VI tr.
CN đến thế kỷ III)
Người ta gọi thời kỳ này là thời kỳ Bàlamôn giáo và Phật giáo bởi vì,
các trào lưu triết học tôn giáo Ấn Độ đều bắt nguồn từ tư tưởng truyền thống
Veda, Upanishad và chịu ảnh hưởng sâu rộng bởi giáo lý của đạo Bàlamôn, được mệnh
danh là hệ tư tưởng và tôn giáo chính thống ở Ấn Độ. Nhưng cũng chính trong thời
kỳ này đã xuất hiện những học thuyết có tư tưởng đối lập với tư tưởng và giáo
lý đạo Bàlamôn, thể hiện tinh thần tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội, trong đó
tiêu biểu là Phật giáo. Các trường phái triết học tôn giáo thời kỳ này mặc dù
có nhiều xu hướng, song có thể chia thành hai hệ thống lớn:
2.2.1. Hệ thống triết học chính thống (The Orthodox Systems)
Là hệ thống các trường phái
triết học thừa nhận uy thế của kinh Veda, Upanishad và biện hộ cho giáo lý
của đạo Bàlamôn, bảo vệ chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội, được gọi là as’tika
(nghĩa là “cái đó tồn tại”), gồm có sáu trường phái chính hay sáu darsanas (các
quan điểm): Sànkhya, Vais’esika, Nyàyà, Yoga, Mimàmsà và Vedànta.
Phái đầu tiên trong hệ thống chính thống đó là phái Sànkhya. Phái này cho rằng
thế giới theo bản chất của nó, phát triển lên từ một nguyên thể vật chất đầu
tiên thuần chất, không định hình, gọi là prakriti.
Prakriti hàm chứa trong nó khả năng
biến hóa, nhờ sự liên hệ tác động của ba gunas, đó là: sattva (sự trong sáng, thuần khiết), tamas (tính ỳ, tối tăm, thụ động), rajas (tính tích cực, hoạt động). Do đó prakriti không ngừng biến hóa trong không gian và thời gian, theo
luật nhân quả dẫn tới sự hình thành toàn bộ thế giới đa dạng. Trước hết, prakriti sinh ra năm yếu tố vật chất đầu
tiên gồm: đất, nước, lửa, khí, ê te; sau đó sinh ra con người với năm cơ quan
tác động gồm: cuống họng, bàn tay, bàn chân, cơ quan bài tiết, cơ quan sinh dục
và năm cơ quan cảm giác như mắt, tai, mũi, lưỡi và da, với năm khả năng tri
giác: thị năng, thính năng, khứu năng, vị năng và xúc năng. Prakriti tiếp tục sinh ra trí tuệ (manas) và cao hơn hết là tri năng (buddhi). Cùng với sự tồn tại của prakriti đó là purusha. Purusha truyền
sinh khí và năng lực của nó cho prakriti,
làm cho prakriti từ một bản nguyên thụ
động, không định hình đã biến hóa thành thế giới. Quan hệ tác động giữa prakriti và purusha quyết định sự tiến hóa của cá nhân và vũ trụ. Mỗi sinh vật
đều cấu thành bởi ba phần: purusha,
thể tinh và thể thô. Thể tinh bao gồm trí tuệ, các giác quan, cảm giác về “cái
tôi”. Thể tinh là trung tâm của nghiệp, nó đi theo với purusha chừng nào chưa được giải thoát hoàn toàn khỏi sự hiện thân
vào một thực thể nào đó. Thể thô gồm các yếu tố vật chất tạo thành mỗi sinh
vật.
Phái thứ hai trong hệ thống chính thống đó là phái Nyàyà. Trường phái Nyàyà
cho rằng toàn bộ thế giới các sự vật, hiện tượng đều do bốn thực thể vật lý đầu
tiên là đất, nước, lửa, khí tạo thành. Các thực thể vật lý ấy lại được cấu
thành bởi phần tử nhỏ nhất, tồn tại trong ê te, không gian và thời gian, đó là
nguyên tử anu. Tồn tại bên cạnh các thực thể vật chất, trong vũ trụ có vô số những
linh hồn có thể ở trong trạng thái tự do cũng như có thể gắn liền với các thực
thể vật chất, gọi là ya. Ý thức là thuộc tính của ya. Đức tính riêng biệt của ý
thức là mong muốn, chán ghét, vui thích, đau đớn, ý chí và biểu tượng. Ngoài
ra, trong thế giới còn tồn tại một bản nguyên tinh thần tối cao, đó là thần
Is’vara. Thần Is’vara tạo ra sự phối hợp giữa các nguyên tử với nhau và tạo nên
mối liên hệ giữa linh hồn với nguyên tử hay giải thoát linh hồn khỏi các nguyên
tử. Is’vara là quyền năng tối cao, vô hình (adris’ta) của vũ trụ. Trong lô gich
học và nhận thức luận, Nyàyà đề xướng thuyết suy luận theo ngũ đoạn luận, gồm:
tiền đề (tôn: pratijnà), chứng minh
(nhân: hetu), đại tiền đề (dụ: udàharana), tiểu tiền đề hay áp dụng
cách chứng minh (hợp: upànaya), kết
luận (kết: nigamàna). Nyàyà thừa nhận
bốn phương thức nhận thức: tri giác (pràtyksa),
suy luận (anumàna), so sánh, (upànna), bằng chứng của các kinh sách (sabda).
Gần gũi với trường phái Nyàyà là trường phái Vais’esika. Trường phái
này đã phản ánh toàn bộ thế giới tồn tại bằng bảy phạm trù: 1. Thực thể, 2. Chất
lượng, 3. Hoạt động, 4. Tính phổ biến, 5. Tính đặc thù, 6. Tính vốn có, 7. Hư
vô. Ba phạm trù đầu tồn tại một cách hiện thực. Ba phạm trù tiếp theo là sản phẩm
của tư duy lô gich. Thực thể là phạm trù cơ bản phản ánh bản chất của các vật
thể. Nó có thuộc tính cố định là chất lượng, nó tồn tại tự nó và là nguyên
nhân sinh ra các vật thể. Thế giới bao gồm những thực thể có chất lượng và vận
động. Thực thể có chín dạng: đất, nước, lửa, gió, không khí hay ê te, thời
gian, không gian, linh hồn và trí tuệ. Trong đó, có năm loại thực thể là yếu tố
vật lý, đó là: đất, nước, lửa, khí, ê te, có đặc tính riêng biệt mà cảm giác có
thể lĩnh hội được. Thực thể ê te có thuộc tính riêng biệt là âm thanh. Ê te
tràn đầy không gian giữa các nguyên tử. Nguyên tử là phần tử nhỏ bé nhất cấu tạo
nên các thực thể vật lý. Chúng được phân chia theo bốn loại, tùy theo nguồn gốc
và gây nên bốn loại cảm giác: xúc giác, vị giác, thị giác và khứu giác. Nguyên
nhân tác động, kết hợp các nguyên tử để tạo thành vạn vật, biến vũ trụ từ hỗn độn
thành trật tự, đó là do một năng lực vô hình, còn gọi là “Linh hồn thế giới”.
Có hai loại linh hồn, “Linh hồn cá biệt” và “Linh hồn tối cao”. “Linh hồn tối
cao” chỉ có một, là toàn năng, là nguyên nhân sáng tạo ra vũ trụ, chỉ huy thế
giới các nguyên tử và linh hồn cá biệt. Song song với thế giới các nguyên tử có
một thế giới linh hồn cá biệt. Số phận, phẩm chất của các linh hồn cá biệt như
thế nào thì “Linh hồn tối cao” cũng tạo ra hay hủy diệt vạn vật trong vũ trụ
cho phù hợp với phẩm chất và số phận của linh hồn cá biệt như thế ấy. Phái Vais’esika
giải thích rằng, linh hồn cá biệt trú ngụ trong con người bị những dục vọng che
lấp, nên làm cho linh hồn cá biệt bị vây hãm bởi thế giới vật dục, không giữ được
bản chất bản nhiên vốn có của mình. Đó chính là nghiệp. Vì vậy, để giải thoát
cho linh hồn, con người ta phải tu luyện, tự chế dục theo phương pháp yoga.
Trong nhận thức luận, Vais’esika đưa ra bốn loại nhận thức đúng: tri giác, suy
luận, ký ức, trực giác.
Trường phái khác trong hệ thống chính thống là phái Yoga. Yoga nguyên nghĩa
tiếng Phạn có nghĩa là “cái ách”, “sự cột vào”, “sự liên kết” hay “hợp nhất tâm
thể về một mối”. Phái này cho rằng để cho tinh thần thoát khỏi sự chi phối của
thể xác và thế giới vật dục, đạt tới sự thanh khiết trong tinh thần, đạo đức,
người ta phải tu luyện kiên trì theo tám phương pháp, gọi là “Bát bảo tu pháp”,
gồm: 1. Chế giới (yama), 2. Nội chế (niyamà), 3. Tọa pháp (asàna), 4. Điều tức pháp (pranyàma), 5. Chế cảm pháp (pràtyahara), 6. Tổng trì pháp (dhàrana), 7. Thiền định (dhỳana), 8. Bát nhã (samadhi).
Một trong những trường phái có quan điểm
riêng về cách thức giải thoát trong hệ thống chính thống là phái Mimàmsà.
Trường phái này cho rằng, đời sống chân chính đưa tới cái gọi là giải thoát
hoàn toàn linh hồn khỏi sự ràng buộc của thể xác và thế giới nhục dục là không
thể đạt được chỉ bằng trí tuệ và mọi sự cố gắng của ý thức, mà phải bằng cách
gìn giữ và thực hiện đúng đắn, nghiêm túc mọi nghi thức của Veda, đồng thời phải
triệt để chấp hành mọi nghĩa vụ, bổn phận, mọi luật lệ và giới luật về mặt xã hội
và tôn giáo, tức “pháp” dharma, đã quy định mỗi đẳng cấp trong xã hội.
Trường phái duy nhất có lập trường nhất
nguyên luận duy tâm triệt để trong hệ thống chính thống là phái Vedànta.
Tư tưởng chủ yếu của kinh Upanishad mà phái Vedànta lấy làm cơ sở cho học thuyết
của mình là vấn đề trả lời cho câu hỏi, cái gì là bản nguyên của thế giới, là
thực tại cao nhất mà khi nhận thức được nó sẽ biết được mọi cái còn lại. Phái
Vedànta cho rằng, cái là bản chất sâu xa, là nền tảng của mọi cái tồn tại, từ
đó nảy sinh ra tất cả và cũng từ đó tất cả mọi cái nhập về sau khi mất đi, đó
là “Tinh thần vũ trụ tối cao” Brahman. Brahman là thực tại tuyệt đối, bất diệt,
là linh hồn, là nguồn sống của vũ trụ. “Linh hồn cá biệt” chỉ là sự biểu hiện
khác nhau của “Linh hồn vũ trụ tối cao” nơi thể xác của chúng sinh. Để giải
thoát linh hồn con người khỏi sự ràng buộc của thể xác và thế giới vật dục, con
người phải dốc lòng tu luyện, suy tư chiêm nghiệm nội tâm, thực nghiệm tâm
linh, nhận ra chân bản tính của mình, đưa linh hồn cá nhân trở về đồng nhất với
“Linh hồn vũ trụ tuyệt đối tối cao”, hợp nhất với Đấng tối cao, bằng sự tu luyện
trí tuệ (prajnà-yoga), đạo đức (karmà-yoga) và niềm tin vào Đấng tối cao
hay chủ nghĩa tín ái (bhakti-yoga).
2.2.2. Hệ thống triết học không chính
thống (The Heterodox Systems)
Là các trường phái không thừa nhận uy thế của
Veda, Upanishad, phê phán giáo lý của đạo Bàlamôn, phản đối chế độ đẳng cấp, gồm:
Lokàyata hay là Càrvàka, Jaina, Phật giáo và các môn phái khác trong “Lục sư
ngoại đạo”.
Trước hết, đó là phái Lokàyata,
cho rằng tất cả sự vật, hiện tượng trong thế giới đều do bốn yếu tố vật chất đầu
tiên gồm đất, nước, lửa, khí tự tụ tự tán trong không gian mà thành. Các sự vật,
hiện tượng sở dĩ đa dạng, phong phú khác nhau là do số lượng và thể thức kết hợp
các nguyên tố đó khác nhau. Linh hồn cũng do các yếu tố đó kết hợp với nhau
theo một cách thức đặc biệt, sau khi sinh vật chết đi thì sự kết hợp đó tan rã
thành các nguyên tố và do đó linh hồn cũng mất đi. Bốn nguyên tố đó lại được cấu
thành bởi những phần tử nhỏ bé, không phân chia, bất diệt gọi là các nguyên tử.
Về nhận thức luận và lô gích học, phái Lokàyata chỉ thừa nhận cảm giác là nguồn
gốc duy nhất của nhận thức. Theo họ, suy lý, kết luận hay những minh chứng của
Veda đều là những phương pháp nhận thức sai lầm. Do đó, Lokàyata đã phủ nhận
tính hiện thực của Thượng đế. Về đạo đức, phái Lokàyata phê phán học thuyết
tuyên truyền cho sự chấm dứt khổ đau bằng cách kiềm chế mọi dục vọng và hy vọng
cuộc sống hạnh phúc nơi thế giới bên kia nào đó. Họ chủ trương hãy để cho mọi
người sống, hưởng thụ tất cả những gì trên cõi đời này, với cả những khổ đau và
hạnh phúc.
Tiếp theo, đó là môn phái Jaina. Môn phái này cho rằng toàn bộ
thế giới đa dạng đều bắt nguồn từ hai thực thể đầu tiên, đó là jiva (linh hồn, tinh thần) và adjiva (không phải là linh hồn). Vật chất
là một trong những biến dạng của adgiva, gồm các yếu tố vật lý như đất, nước, lửa,
khí, chúng có những đặc tính như sờ mó được, có âm thanh, mùi vị và màu sắc.
Các yếu tố vật chất lại được cấu thành bởi các nguyên tử anu. Anu có đặc tính cực
kỳ nhỏ bé, không thể phân chia, tồn tại vĩnh viễn. Các thực thể vật chất hình
thành đều do các nguyên tử tự tụ tán với nhau theo số lượng và cách thức khác
nhau. Ngoài ra, còn có một thứ vật chất tinh tế, không thể nhận biết bằng cảm
giác, nó quyết định mối liên hệ giữa linh hồn và thể xác. Jaina không thừa nhận
có “Linh hồn tối cao”. Trong thế giới có số lượng lớn và cố định những linh hồn,
được thể hiện trong các thực thể sống hoặc không được thể hiện ra. Linh hồn
cũng như vật chất không do ai tạo ra, tồn tại ngay từ đầu và tồn tại mãi mãi.
Dưới dạng tiềm năng và bản chất của nó, linh hồn là một lực lượng toàn năng,
thâm nhập được tất cả, hiểu biết tất cả. Nhưng khả năng ấy của nó lại bị thân
xác cụ thể với những dục vọng, ý chí mà linh hồn trú ngụ trong đó hạn chế. Muốn
giải phóng linh hồn ra khỏi sự ràng buộc bởi những ham muốn của thể xác và sự
lôi kéo của thế giới vật dục, người ta phải tu luyện trí tuệ và đạo đức theo luật
ahimsà, sống khổ hạnh ép xác, giữ đạo
đức và linh hồn trong sạch, khi đó con người có thể đạt tới giải thoát.
Nổi bật trong hệ thống không chính thống
đó là Phật giáo. Phủ nhận
tư tưởng về sự tồn tại của Đấng sáng tạo Brahmà trong kinh Veda, Upanishad
và đạo Bàlamôn, Phật giáo cho rằng thế giới là một dòng biến chuyển không ngừng,
theo chu trình sinh, thành, hoại, diệt, gọi là một kiếp
(kalpa) hay một satna (ks’ana), không
do ai tạo ra và cũng không có cái gì là tồn tại vĩnh viễn. Nguyên nhân của sự
biến đổi ấy của vạn pháp, đó là do sự chi phối và tác động của luật nhân quả.
Triết học Phật giáo gọi đó là “chư hành vô thường”. Theo triết lý Phật
giáo, con người cũng do nhân duyên tạo ra bởi hai thành phần: phần sinh lý và
phần tâm lý. Trong đó, phần sinh lý tức thể xác gọi là “sắc” (rupa), được tạo bởi
bốn yếu tố (tứ đại) là: thủy, hỏa, địa, phong; sắc tạo nên thân thể, các giác
quan và đối tượng của chúng. Phần tâm lý hay tinh thần chỉ có tên gọi mà không có
hình chất nên gọi là “danh”. Danh cũng do bốn yếu tố hợp thành đó là: thụ, tưởng,
hành, thức. Quá trình hợp, tan của ngũ uẩn do nhân duyên tác động tạo ra sự
sinh thành, diệt vong của mỗi chúng sinh. Vì thế sự tồn tại của vạn pháp, thực
chất cũng chỉ là giả hợp, không có cái gì là thực thể, không có cái gì
tồn tại tuyệt đối cả, cho nên gọi là “vạn pháp vô ngã”. Vì không nhận thức
được rằng cái tôi có mà không; nên người ta lầm tưởng rằng cái gì cũng thường định,
cho nên con người ta chấp ngã, khát ái, tham dục, gây nên nghiệp báo (karma) do ý nghĩ (ý), lời nói (khẩu),
hành động (thân) xuất phát từ tâm con người ta ra, mắc vào bể khổ luân hồi (samsàra). Từ đó Phật giáo đã chỉ ra nguồn
gốc nỗi khổ của con người và con đường diệt khổ để được giải thoát, qua học
thuyết “Tứ diệu đế” (catvàri àrya satyàni),
“Thập nhị nhân duyên” (dvàdasanidàna)
và “Bát chánh đạo” (astàngika màrga).
“Tứ diệu đế” là bốn chân lý cao thượng, chắc chắn, gồm: Khổ đế (dukkha
satya), là chân lý về nỗi khổ của chúng sinh, đó là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ,
tử khổ, ái biệt ly khổ, sở cầu bất đắc khổ, oán tăng hội khổ, ngũ uẩn chấp thủ
là khổ. Tập đế (sammudaya satya), là chân lý giải thích nguồn gốc nỗi khổ
của chúng sinh. Phật giáo đã đưa ra thuyết “Thập nhị nhân duyên” để chỉ ra nguồn
gốc của những nỗi khổ ấy. Mười hai nhân duyên đó là: 1. Vô minh (avidyà), 2. Hành
(samskàra), 3. Thức (vijnàna), 4. Danh
sắc (nàma rùpa), 5. Lục căn
(sadàyatana), 6. Xúc (sparsa), 7. Thụ (vedanà), 8. Ái (trsnà), 9. Thủ
(upàdàna), 10. Hữu (bhàva), 11. Sinh (jàti) và 12. Lão tử (jarà-marana). Như vậy, theo triết lý Phật giáo, nguyên
nhân trực tiếp của nỗi khổ chính là do ái dục. Còn nguyên nhân sâu xa chính là
do sự “vô minh” của con người. Diệt đế (dukkha nirodha satya), là chân lý về sự diệt khổ, khẳng định rằng
chúng sinh có thể chấm dứt được nghiệp báo, luân hồi bằng những nỗ lực trong tu
luyện đạo đức và trí tuệ của mình. Đạo đế (màrga satya), là chân lý về con đường diệt khổ. Có tám con đường
tu luyện để giải thoát, gọi là “Bát chánh đạo”, gồm: Chính kiến (samyag drsti), Chính
tư duy (samyak samkalpa), Chính ngữ
(samyag vàcà), Chính nghiệp (samyak
karmanta), Chính mệnh (samyag àjiva),
Chính
tinh tiến (samyag vyàyàma), Chính niệm (samyag smrti), Chính
định (samyak samàdhi). Tám con đường
ấy được quy về ba môn học, gọi là “Tam học”, gồm: giới (s’ìla), định
(dhyàna), tuệ (prajnà).
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trên cơ sở đặc
điểm điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội khá đặc biệt, triết học Ấn Độ cổ
đại đã hình thành, phát triển và trải qua hai thời kỳ: thời kỳ Veda - Sử thi và
thời kỳ Cổ điển hay thời kỳ Phật giáo - Bàlamôn giáo. Thời kỳ Veda - Sử thi thế giới
quan thần thoại tôn giáo mang tính chất đa thần tự nhiên chiếm địa vị thống
trị. Sau đó là sự biến chuyển từ thế giới
quan thần thoại tôn giáo đa thần sang nhất thần giáo và cuối cùng hòa trộn với
nó là thuyết nhất nguyên với quan niệm về “Tinh thần vũ trụ tối cao”, về thần Sáng
tạo tối cao sáng tạo, chi phối thế giới. Đó cũng là thời kỳ con người từ trình độ nhận thức cảm tính,
giải thích thế giới bằng biểu tượng các vị thần tự nhiên phát triển lên trình
độ nhận thức lý tính, lý giải về căn nguyên của vũ trụ và bản chất con người, bằng
một bản nguyên triết học có tính trừu tượng.
Thời kỳ Cổ điển
hay thời kỳ Phật giáo - Bàlamôn giáo là thời kỳ phát triển tư tưởng triết lý
của kinh Veda và kinh Upanishad bởi các trường phái triết học tôn giáo lớn như:
Sànkhya,
Vais’esika, Nyàya, Yoga, Mimàmsà và Vedànta, gọi là các darsanas hay hệ thống triết học tôn
giáo chính thống, và ba môn phái Jaina, Lokàyata và Phật giáo, gọi là hệ thống
triết học tôn giáo không chính thống. Nếu trong thời kỳ Veda thế giới quan thần
thoại tôn giáo có tính chất đa thần tự nhiên là nội dung chủ yếu và tư tưởng
triết học còn mang tính tản mạn thì thời kỳ Cổ điển đã đi sâu vào lý giải và trả lời cho
những câu hỏi về thế giới và nhân sinh mang tính hệ thống, mạch lạc, chặt chẽ hơn.
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA
TRIẾT HỌC ẤN
ĐỘ CỔ ĐẠI
3.1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA
TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
Từ nội dung của triết học Ấn Độ cổ đại, có thể nói, nền triết học ấy có những đặc điểm
chủ yếu sau:
3.1.1. Tính thống nhất và đa dạng - đặc điểm nổi bật
của triết học Ấn Độ cổ đại
Tính thống nhất và đa dạng trong triết học Ấn Độ cổ
đại được biểu hiện ở chỗ, trên cùng một điều kiện sống và đặc điểm lịch sử xã
hội, cùng một mục đích là suy ngẫm về bản chất và ý nghĩa tối cao của cuộc đời
của con người, lý giải về lẽ sống của con người, đi
tìm nguồn gốc của nỗi khổ, từ đó đề ra
cách thức để giải thoát con người khỏi nỗi khổ của cuộc đời, nhưng các
trường phái triết học Ấn Độ lại phát triển theo những khuynh hướng, tính chất
rất đa dạng, phong phú khác nhau, tạo ra sự sống động, muôn màu muôn vẻ của nó.
“Có thuyết đa thần giáo, có thuyết hữu thần với một
Thượng đế riêng và nhất thần giáo thuần tuý; và một hệ thống vừa nhận Thượng đế
vừa tự đặt cơ sở trên một thuyết tiến hóa. Có chủ nghĩa duy tâm lẫn chủ nghĩa
hiện thực. Chúng “đại diện cho một cách tiếp cận, một lý luận riêng rẽ, ấy thế
mà chúng không biệt lập với nhau.” [7] Điều đó
được biểu hiện trong các trường phái triết học tôn giáo chính thống, tất cả đều
có sự thống nhất: một là, thừa nhận
uy thế của Veda và Upanishad, tức thừa nhận Brahman là bản nguyên duy nhất, tối
cao tuyệt đối chi phối vũ trụ vạn vật; hai
là, biện hộ cho giáo lý đạo Bàlamôn, kêu gọi con người hãy chấp hành nghiêm
chỉnh mọi giới luật, lễ nghi của đạo Bàlamôn, bằng sự tu luyện nghiêm khắc về
đạo đức và tu luyện trí tuệ, phục tùng mọi luật lệ xã hội, để tâm hồn trở nên
trong sạch, từ đó có thể siêu thoát lên Thiên đường sau khi con người ta chết
đi; và ba là, bảo vệ cho chế độ phân
biệt đẳng cấp xã hội. Tuy nhiên, các trường phái triết học đó lại phát triển tư
tưởng của họ theo các khuynh hướng khác nhau. Có phái nhất nguyên luận, như môn
phái Vedànta, chỉ đề cao Brahman, nhưng cũng có những phái đa nguyên bản thể
luận như trường phái Sànkhya, thừa nhận thế giới được cấu thành từ hai bản nguyên
là prakriti (vật chất, tự nhiên) và purusha (linh hồn), hay phái Vais’esika,
giải thích thế giới bằng sáu nguyên lý căn bản: thực thể, chất lượng, vận
động, đứng im, đồng, dị, hoà hợp và tất cả đều xuất phát từ hai bản nguyên vật
chất, gồm tứ đại được cấu tạo bởi các nguyên tử anu và tinh thần hay Linh hồn
tối cao; có trường phái thể hiện tính chất duy tâm triệt để như phái Vedànta,
Yoga, nhưng cũng có những trường phái vừa giải thích vũ trụ vạn vật bằng sự
tiến hoá của vật chất do sự kết hợp hay phân rã của nguyên tử, vừa đề cao
Thượng đế chi phối sự vận động, biến đổi của thế giới nguyên tử ấy. Để nhận
thức được bản thể tối cao và chân bản tính của con người, từ đó đồng nhất với
bản thể tối cao ấy, có trường phái đề cao phương pháp rèn luyện đạo đức và trí
tuệ, trực giác như phái Vedànta, có những trường phái đi sâu phương pháp tiếp
cận chân lý bằng học thuyết nhận thức và lô gích học khá đặc sắc như Vais’esika,
Nyàya.
Còn trong các trường phái triết học tôn giáo được coi là không chính thống, tuy chúng đều có những điểm thống nhất, như: một là, nghi ngờ và phủ nhận
quyền uy của kinh Véda và
Upanishad; hai là, phê phán giáo lý đạo Bàlamôn, và ba là,
phủ nhận chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội,
nhưng giữa họ cũng lại có sự khác biệt nhau trong quan niệm về thế giới cũng
như quan niệm về nhân sinh.
Trường phái Lokàyata luôn thể hiện một cách hết sức rõ ràng và triệt để
thế giới quan duy vật, vô thần của mình, chỉ thừa nhận bốn yếu tố cơ bản cấu
thành vạn vật gồm: đất, nước, lửa, khí, ngay cả linh hồn con người cũng là do
“tứ đại” kết hợp theo một thể thức đặc biệt của vật chất, gắn liền với sự tồn tại và không tồn
tại của thể xác, phủ nhận Thượng đế, thần linh, đả phá quan niệm về “sự bất tử
của linh hồn”, đề cao chủ nghĩa hiện thực,
chỉ thừa nhận những gì mà con người tri giác được. Còn trường phái triết học
Jaina lại là một hệ thống triết học mang tính chất nhị nguyên luận, có chiều
hướng ngả về chủ nghĩa duy tâm. Nó thừa nhận chỉ có hai bản nguyên đầu tiên cấu
tạo nên thế giới vạn vật, đó là jiva và adjiva. Trường phái Jaina cho rằng
mọi sai lầm về đạo đức dẫn tới sự đau khổ chính là tham muốn và thế giới vật
dục lôi kéo, do vậy phải tu luyện khổ hạnh, ép xác, chế ngự mọi cảm giác và
diệt mọi dục vọng theo luật ahimsa.
Trong khi đó, Phật giáo vừa không thừa nhận thế
giới quan thần quyền vừa không thừa nhận “cái ngã” - cá nhân bất biến, chủ
trương tất cả đều do nhân duyên hòa hợp, tác động mà hiển hiện, “vô thường”,
“vô ngã” theo chu trình biến hóa: sinh, thành, dị, diệt diễn ra trong một
sátna, một niệm hay một kiếp (kalpa). Và, căn cứ của nhân duyên là ở ý thức, ở
tâm chúng ta. Do đó, nếu muốn giải thoát, con người phải cắt đứt nhân duyên,
xóa vô minh, diệt dục vọng bằng “Bát chính đạo”, gồm giới, định, tuệ, để đạt tới cái tâm trong sáng, bản
nhiên, thanh tịnh, không vọng động, đạt tới sự giác ngộ, giải thoát và Niết
bàn. Như vậy, nếu xem xét triết học Ấn Độ cổ đại một cách tổng thể và tính chất thì đặc điểm nổi bật của nó là tính thống
nhất và đa dạng.
3.1.2. Sự đấu tranh, kế thừa - đặc điểm
xuyên suốt trong triết học Ấn Độ cổ đại
Trong quá trình phát triển của triết học Ấn Độ, luôn
diễn ra sự “tranh luận triết lý” khá sôi động, gay gắt giữa các trường phái
triết học duy vật, vô thần hay “những người theo thuyết hư vô”, “bọn hoài nghi”
với quan điểm duy tâm tôn giáo trong kinh Veda, kinh Upanishad, trong giáo lý đạo Bàlamôn và các môn phái triết học duy tâm; nhằm phủ nhận quan điểm suy tôn Thượng đế hay Tinh thần vũ trụ
tối cao - là nguyên lý tối cao sáng tạo và chi phối vũ trụ; chống lại những
quan điểm về sự bất tử của linh hồn; về nghiệp báo luân hồi và sự siêu thoát của linh
hồn con người sang “thế giới bên kia” nào đó, khi người ta chết đi.
Các trường phái triết học, tôn giáo Ấn Độ vừa đấu tranh với
nhau, vừa kế thừa tư tưởng của nhau, trên cái trục chính của văn hóa tư tưởng
Ấn Độ đó là Véda - Upanishad - Bhagavad-gità và Vedànta, tương ứng với
ba hình thái phát triển của Ấn Độ giáo là đạo Rig - Veda - đạo Bàlamôn - đạo Hindu. Đó là quá trình phủ định của phủ định các hình
thái Ấn Độ giáo trong quá trình phát triển. Chúng “gối lên nhau, tư tưởng mới
và tư tưởng cũ vận động bên nhau,.. không dung hòa và thường khi mâu thuẫn với
nhau”[8], tạo nên hệ thống khái niệm, phạm trù,
nguyên lý triết học, tôn giáo sinh động, phong phú và sâu sắc.
Trong cuộc đấu tranh chống lại
chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo trong thánh kinh Véda, Upanishad và giáo lý
Bàlamôn, những quan điểm duy vật vô thần cũng đã để lại những dấu ấn sâu sắc
trong lịch sử tư tưởng Ấn Độ. Các tăng lữ, tu sĩ quý tộc đương thời đã phê phán
những nhà triết học duy vật, vô thần và kết tội họ là “bọn tà giáo”. Còn “những
người duy vật thì đả kích quyền lực và tất cả các quyền lợi có tính chất bất di
bất dịch trong tư tưởng tôn giáo và thần học… Nó muốn thoát khỏi những xiềng
xích và gánh nặng của quá khứ, thoát khỏi việc suy tưởng về những vấn đề không
cảm thụ được, khỏi sự sùng bái của thần linh tưởng tượng”[9]. Như vậy, nếu xem xét ở mặt động lực thì sự đấu
tranh và kế thừa là đặc điểm xuyến suốt
của triết học Ấn Độ cổ đại.
3.1.3.
Triết lý đạo đức nhân sinh với tư tưởng giải thoát - một trong những
vấn đề trung tâm của triết học Ấn Độ cổ đại
Triết học Ấn Độ là một nền triết học phát triển khá
phong phú về nội dung và hình thức. Nó đã đề cập đến hầu hết các vấn
đề của triết học thể hiện trình độ phát triển tư duy lôgích sâu sắc của người
Ấn Độ, như vấn đề bản thể luận, nhận thức luận, lôgích học, tâm lý học, đạo
đức, luân lý học... Tuy nhiên, dù dưới
những hình thức muôn màu muôn vẻ như thế nào, các học thuyết triết học tôn giáo
Ấn Độ đều tập trung lý giải một vấn đề cơ bản nhất, đó là vấn đề về bản chất và
giá trị đời sống con người, tìm nguồn gốc của nỗi khổ của con người và vạch ra
con đường, cách thức để giải thoát con người khỏi những nỗi khổ ấy trên bình diện tinh thần, đạo đức, tâm linh;
cố gắng đi tìm chân bản tính của con người mà về bản chất là đồng nhất với
nguồn sống của vũ trụ tuyệt đối tối cao, hay tìm cái ta vũ trụ tuyệt đối, bản
nhiên trong cái ta giả, cái ta hiện tượng đầy hư vọng và tham dục của con
người.
Do đó, đối với các trường phái triết
học Ấn Độ, mục đích tối cao của đời sống con người là phải vượt qua sự vô minh,
nhận ra chân bản tính của mình và thực tướng của vạn vật, xóa bỏ mọi dục vọng, đạt
tới cái tâm thanh tịnh, hòa nhập được vào với bản thể vũ trụ tối cao, bằng tu
luyện đạo đức (karma-yoga), trí tuệ
trực giác (prajna-yoga) và đức tin (bhakti-yoga). Đó chính là sự giải thoát.
Như vậy, nếu xem xét triết học Ấn Độ ở mặt
giá trị thì vấn đề nhân sinh và vấn đề giải thoát là đặc điểm trung tâm của triết học Ấn Độ cổ đại.
3.2. Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA TRIẾT
HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
Với
những nội dung và đặc điểm trên, triết học Ấn Độ cổ đại có ý nghĩa to lớn
không chỉ với sự phát triển nhận thức, tư tưởng mà còn với cả triết lý đạo đức
nhân sinh, quan điểm tôn giáo và đời sống xã hội của dân tộc Ấn Độ.
3.2.1. Ý nghĩa về mặt tư tưởng của triết
học Ấn Độ cổ đại
Ý nghĩa đầu tiên về mặt tư tưởng,
đó là triết học Ấn Độ cổ đại đã đề cập và tập trung nghiên cứu, lý giải hầu hết
các lĩnh vực căn bản khác nhau của triết học, từ vấn đề bản thể luận, nhận thức
luận, lô gích học, và đặc biệt là vấn đề về bản chất con người. Do đó, triết
học Ấn Độ cổ đại đã góp phần to lớn vào nhận thức, giải thích thế giới và nhân
sinh.
Thứ hai, từ sự thống nhất và đa dạng, đấu tranh và kế
thừa trong quá trình phát triển, triết học tôn giáo Ấn Độ, đã góp phần tạo nên
hệ thống những khái niệm, phạm trù, nguyên lý triết học tôn giáo, trong quan
niệm về thế giới và nhân sinh hết sức đa dạng, phong phú, sâu sắc, như: “tồn
tại”, “hư vô”, “thực thể”, “chất”, “lượng”, “thể xác”, “linh hồn”, “tứ đại”,
“không gian”, “thời gian”, “vận động”, “đứng im”, “bản ngã”, “tri giác”, “trực
giác”, “suy luận”, “chứng minh”, “kết luận”, “thiền định”, “nhân quả”, “nghiệp
báo”, “luân hồi”, “hạnh phúc”, “khổ đau”, “thiện”, “ác”, “sống’, “chết”, “tự
do”, “giải thoát”, “siêu thoát”, “Niết bàn”…
Thứ ba, tư tưởng triết học Ấn Độ đã góp phần hun đúc
cho người Ấn Độ cổ một triết lý sống; nó ảnh hưởng mạnh mẽ trong việc nhào nặn
cách nhìn của dân tộc và phát triển một tâm thức đặc biệt của người Ấn Độ. Tâm
thức đi tìm cái thanh tĩnh, vô hạn, tuyệt đối đằng sau cái vô thường, hữu hạn,
tương đối; tâm thức coi tiền tài, danh vọng chỉ là phù du; còn cái giá trị
trong tâm linh, đạo đức con người mới là cao cả vĩnh hằng.
3.2.2. Ý nghĩa về mặt tôn giáo của triết
học Ấn Độ cổ đại
Tất cả
các trường phái triết học Ấn Độ, trừ môn phái Lokàyata, với tư cách là khoa
học đi tìm chân lý, bao giờ cũng là cơ sở triết lý cho một tôn giáo nào đó. Còn
tôn giáo chính là sự thể nghiệm chân lý, biến triết lý đó thành đạo lý, bằng sự
tu luyện trí tuệ, đạo đức, đức tin, thông qua hệ thống giáo lý, giới luật và
các nghi thức tôn giáo.
Dù khác
nhau về khuynh hướng, tính chất, nhưng tất cả các trường phái triết học Ấn Độ
cổ đại đều quan tâm đến số phận và cuộc đời con người, mong muốn tìm ra chỗ quy
hướng của kiếp người, tìm con đường, cách thức hoàn thiện con người và giải
thoát con người khỏi nỗi khổ của cuộc đời, chủ yếu trong thế giới tinh thần,
tâm lý, đạo đức, tâm linh. Do đó triết học Ấn Độ mang đậm tính chất tôn giáo.
Hơn thế, triết học Ấn Độ cổ đại với triết lý nhân sinh sâu sắc của nó, nó không
còn là những tư tưởng triết lý cao siêu, thoát ly quần chúng, mà nó thấm vào
quần chúng, ảnh hưởng phổ biến đến quần chúng như một niềm tin, một lẽ sống,
một tôn giáo. “Triết học Ấn Độ là một bộ phận thiết yếu của tôn giáo quần
chúng; nó thấm vào quần chúng dưới dạng giản đơn hơn nào đó và tạo ra một quan
điểm triết học hầu như phổ biến ở Ấn Độ.”[10]
3.2.3. Ý nghĩa về mặt đạo đức của
triết học Ấn Độ cổ đại
Các trường phái triết học Ấn Độ cổ đều quan tâm đến con người, cố
gắng đưa ra các phương pháp rèn luyện đạo đức, trí tuệ và hành động để xóa vô
minh, diệt dục vọng, góp phần hoàn thiện con người cả về tri thức, đạo đức và
nhân cách, như triết lý Upanishad và giáo lý đạo Bàlamôn đề cao karma-yoga và prajnà-yoga, Vedànta chủ trương tu luyện đạo đức karma-yoga, rèn luyện trí tuệ trực
giác prajnà-yoga và đề cao chủ nghĩa
tín ái bhakti-yoga, Jaina chủ trương
sống theo luật ahimsa, còn Phật giáo
thì chủ trương “Bát chính đạo”, “Ngũ giới”, “Lục độ”. Không những thế các
trường phái triết học Ấn Độ cổ đại còn cố gắng xây dựng cho con người mục đích, lý tưởng sống và những chuẩn
mực đạo đức tốt đẹp cả trong quan điểm, thái độ lẫn hành vi và các quan
hệ đạo đức. Trong đó mục đích cao cả nhất của đời sống con người, theo các
trường phái triết học Ấn Độ cổ đại là giải thoát. Các chuẩn mực đạo đức và các
phương pháp tu luyện đạo đức của các trường phái triết học Ấn Độ cổ đã ảnh
hưởng khá sâu rộng đến đời sống tinh thần, đạo đức của người dân Ấn Độ.
Tuy nhiên, triết học Ấn Độ cổ đại cũng có
những hạn chế nhất định, đó là: 1). Tính không triệt để trong khuynh hướng, tính
chất thế giới quan triết học của nó; 2). Lối tư duy đề cao và tuyệt đối hóa cái chung thành cái tuyệt đối, tách rời
thế giới hiện thực, làm cho hầu hết các trường phái triết học Ấn Độ rơi vào
khuynh hướng duy tâm; tạo nên trong tư tưởng của người Ấn Độ tâm lý tuyệt đối
hóa và tôn sùng các lực lượng tự nhiên một cách mù quáng, biến họ “trở thành công cụ ngoan
ngoãn của mê tín, trói buộc họ bằng xiềng xích nô lệ của các quy tắc cổ truyền.”[11];
3). Do chưa giải thích đúng đắn căn nguyên nỗi khổ của
cuộc đời con người, cho nên sự giải thoát
trong triết học Ấn Độ cổ đại chủ yếu chỉ dừng
lại ở sự giải thoát trên lĩnh vực tinh thần, đạo đức, tâm linh.
KẾT LUẬN CHƯƠNG
3
Từ bức tranh toàn cảnh về triết
học Ấn Độ cổ đại qua các giai đoạn phát triển, với nội dung đặc sắc của các
kinh sách, các trường phái triết học thuộc cả hệ thống chính thống (as’tika) và không chính thống (nas’tika), có thể nói, triết học Ấn Độ cổ đại nổi bật nên ba
đặc điểm chính: một là, tính thống nhất và đa dạng của triết học Ấn Độ cổ đại trong nội dung,
tính chất và khuynh hướng; hai là, sự đấu tranh, kế thừa
trong triết học Ấn
Độ cổ đại; ba là, vấn đề nhân sinh,
đặc biệt là vấn đề giải thoát con người khỏi nỗi khổ của cuộc đời, bằng sự tu luyện trí tuệ và đạo đức, nhằm nhận thức được bản thể chân thực của vũ trụ vạn vật và chân bản tính của mình, là một
trong những vấn đề trung tâm của triết học Ấn Độ cổ đại. Vì thế, triết học Ấn Độ cổ đại có ý nghĩa lịch sử to lớn. Nó góp phần làm phong phú và
sâu sắc những tư tưởng triết lý, tôn giáo ở Ấn Độ nói riêng và nhân loại nói
chung, cả về thế giới quan, nhận thức luận, lô gích học và đạo đức luân lý. Các
trường phái triết học Ấn Độ đi tìm chân chân lý không phải chỉ ở những điều
triết lý khô khan, tựu trung, mà đều cố gắng “tìm ra chỗ quy hướng của kiếp người,
tìm phương châm thực tiễn để quy định cho lẽ sống.”[12] của con người, chủ yếu trong đời sống tinh thần, đạo đức,
tâm linh.
KẾT LUẬN CHUNG
1.Triết học Ấn Độ cổ đại là một
trong những nền triết học phát triển rực rỡ và khá đặc biệt của nhân loại, phản
ánh tập trung tính chất sinh hoạt xã hội Ấn Độ cổ đại. Hình thành từ thời kỳ
Veda - Sử thi (khoảng từ thế kỷ
XV trước CN đến thế kỷ VI trước CN), từ những tư tưởng thần thoại, tôn giáo người Ấn Độ đã sáng tạo nên triết
học giải căn nguyên của vũ trụ và nhân sinh với Brahman là Tinh thần vũ trụ tuyệt đối
tối cao là bản nguyên vũ trụ, chi phối vũ trụ vạn vật và biểu tượng Phạm thiên,
Brahman thể hiện trong kinh Veda, kinh kinh Upanishad, sử thi Ràmàyana,
Mahàbhàrata…
Triết học Ấn Độ cổ đại phát triển khá rực rỡ ở thời kỳ Phật giáo, Bàlamôn giáo (khoảng từ thế kỷ
thứ VI trước CN đến thế kỷ thứ III sau CN), với hai hệ thống chính, hệ thống triết học chính thống
(as’tika), gồm sáu phái chính: Sànkhya, Nyàya, Vais’esika, Mimàmsà, Yoga và Vedànta, gọi là các dars’anas; và hệ thống không
chính thống (nas’tika), gồm có các phái là Lokàyata hay Càrvàka, Jaina, Phật giáo và
“Lục sư ngoại đạo”. Bên cạnh những quan điểm có tính chất duy tâm, tôn giáo,
những quan điểm duy vật, vô thần cũng đã xuất hiện và luôn đấu tranh với tư
tưởng duy tâm, tín ngưỡng tôn giáo thống trị xã hội qua các thời kỳ này.
2. Qua bức tranh khái quát về triết học Ấn Độ
cổ đại, có thể thấy nổi bật lên một số đặc điểm chủ yếu của nó. Nếu
xem xét triết học Ấn Độ ở tổng thể và tính chất, chúng ta thấy triết học Ấn Độ
cổ đại vừa mang tính thống nhất vừa mang tính đa dạng. Trên cùng một cơ sở hiện thực xã
hội, cùng một mục đích chung là đi tìm lẽ sống cho nhân sinh, cùng bị chi phối
bởi tư tưởng truyền thống và tín ngưỡng cổ truyền, nhưng các trường phái triết
học tôn giáo Ấn Độ lại phát triển theo các khuynh hướng và tính chất khác nhau.
Mỗi hệ thống, mỗi trường phái triết học trên “đại diện cho một cách tiếp cận,
một lý luận riêng lẻ, ấy thế mà chúng ta không biệt lập với nhau”[13]. Nếu tiếp cận triết học Ấn Độ ở mặt động lực, chúng ta thấy quá trình phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại là quá trình đấu tranh, kế thừa của các trường phái triết học duy vật, vô thần hay “những người theo thuyết hư vô”,
“bọn hoài nghi”, “tà giáo” với các trường phái triết học duy tâm, tôn giáo như triết lý Veda, Upanishad, giáo lý
đạo Bàlamôn, triết lý Vedànta nhằm phủ nhận Brahman, linh hồn bất tử và sự
siêu thoát của linh hồn con người sang thế giới bên kia nào đó. Nếu xem xét triết học Ấn Độ ở mặt giá trị, ta thấy triết học Ấn Độ
cổ đại là triết lý đạo đức nhân sinh và mục đích tối cao của nó là giải thoát
con người khỏi nỗi khổ, chủ yếu trên bình diện tinh thần, đạo đức, tâm linh,
bằng sự tu luyện trí tuệ (trực giác), đạo đức và đức tin (chủ nghĩa tín ái).
3. Với nội
dung và đặc điểm phong phú, đặc sắc trên, triết học Ấn Độ cổ đại thực sự có ý nghĩa to lớn trên nhiều mặt. Về mặt tư tưởng, triết học
Ấn Độ cổ đại đã tập trung nghiên cứu, làm sáng tỏ hầu hết các lĩnh vực cơ
bản của triết học, do đó, nó đã góp phần vào mài sắc tư duy, phát triển nhận
thức, làm phong phú và sâu sắc những quan điểm về thế giới và nhân
sinh trong triết học Ấn Độ. Về mặt
tôn giáo, triết học Ấn Độ với tư cách là khoa học đi tìm chân lý, bao giờ
cũng là cơ sở triết lý cho một tôn giáo nào đó. Còn tôn giáo chính là sự thể
nghiệm chân lý đó, biến triết lý đó thành đạo lý, đức tin bằng sự tu luyện đạo
đức, trí tuệ trực giác, thông qua giáo lý, giới luật và các lễ nghi tôn giáo. Về mặt đạo đức, triết học Ấn Độ cổ
đại luôn quan tâm đến con người, đưa
ra các phương pháp rèn luyện đạo đức góp phần hoàn thiện con người. Không những
thế triết học Ấn Độ cổ đại còn cố gắng xây dựng cho con người mục đích, lý tưởng sống và những quan hệ, chuẩn mực đạo đức cao
đẹp.
[1]. The Upanishads, vol. II, Bonanza Books,
New York, 1951, p. 71.
[2]. C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 20, tr. 489.
[3]. C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 20, tr. 487.
[4]. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t. 9, tr. 38.
[5]. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1995, t. 9, tr. 175.
[6]. Jawaharlal Nehru: The Discovery of India, vol. 1, The Oxford University Press, India,
1954, p. 391.
[7]. Jawaharlal Nehru: The Discovery of India, vol. 1, The
Oxford University Press, New Delhi, India. 1954, p. 117.
[8]. Jawaharlal Nehru: The Discovert of India, vol. 1, The Oxford
University Press, New Delhi, India, 1954, p. 115.
[9]. Jawaharlal Nehru: The Discovery of India, vol.1, The Oxford
University Press, New Delhi, India, 1954, p. 54.
[10]. J. Nehru: The Discovery of India, vol. 1, The Oxford University Press, New Delhi,
India, 1954, p.44.
[11]. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t. 1, tr. 177 -
178.
[12]. Kimura Taiken: Đại
thừa Phật giáo tư tưởng luận, Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1969, tr. 22.
[13]. J. Nehru: The
Discovery of India, vol 1, The Oxford University Press, New Delhi, India,
1954, p.117.