Phân tích quan điểm triết học phật giáo ( Ấn Độ Cổ Đại) về vấn đề Nhân Sinh Quan.

 Câu 1 Phân tích quan điểm triết học phật giáo ( Ấn Độ Cổ Đại) về vấn đề Nhân Sinh Quan.

Câu 2 Phân tích nội dung liên hệ về mối liên hệ phổ biến. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý này Anh Chị phân tích nguyên nhân của biến đổi khí hậu toàn cầu hiện nay.

Bài Làm:

Câu 1 Phân tích quan điểm triết học phật giáo ( Ấn Độ Cổ Đại) về vấn đề Nhân Sinh Quan.

Phật giáo cho rằng các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ ( chư pháp ) là vô thuỷ, vô chung (vô cùng, vô tận). Tất cả thế giới đều ở quá trình biến đổi liên tục (vô thường ) không có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật cả. Tất cả các Pháp đều thuộc về một giới ( vạn vật đều nằm trong vũ trụ) gọi là Pháp giới. Mỗi một pháp ( mỗi một sự việc hiện tượng, hay một lớp sự việc hiện tượng) đều ảnh hưởng đến toàn Pháp. Như vậy các sự vật, hiện tượng hay các quá trình của thế giới là luôn luôn tồn tại trong mối liên hệ, tác động qua lại và qui định lẫn nhau.

Tác phẩm “ thanh dung thực luận” của kinh phật viết rằng: “ Có người cố chấp là có Đại tự nhiên là bản thể chân thực bao khắp cả, lúc nào cũng thường định ra chư pháp, đạo Phật cho rằng toàn bộ chư pháp đều chi chi phối bởi luật nhân quả, biến hoá vô thường, không có cái bản ngã cố định, không có cái thực thể, không có hình thức nào tồn tại vĩnh viễn cả. Tất cả đều theo luật nhân quả biến đổi không ngừng và chỉ có sự biến hoá ấy là thường còn (vĩnh viễn). Cái nhân nhờ có cái duyên mới sinh ra được mà thành quả. Quả lại nhờ có duyên mà thành nhân khác, nhân khác lại thành quả. Quả lại nhờ có duyên mà thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành quả mới ... Cứ thế nối nhau vô cùng vô tận mà thế giới, vạn vật, muôn loài, cứ sinh sinh, hoá hoá mãi.

Như vậy ngay từ đầu Phật giáo đã đặt ra mục đích giải quyết vấn đề cơ bản của Triết học một cách biện chứng và duy vật. Phật giáo đã gạt bỏ vai trò sáng tạo thế giới của các “đấng tối cao” của “Thượng đế” và cho rằng bản thể của thế giới tồn tại khách quan và không do vị thần nào sáng tạo ra cả. Cái bản thể ấy chính là sự thường hằng trong vận động của vũ trụ, là muôn ngàn hình thức của vạn vật trong vận động, nó có mặt trong vạn vật nhưng nó không dừng lại ở bất kỳ hình thức nào. Nó muôn hình vạn trạng nhưng lại tuân hành nghiêm ngặt theo luật nhân quả.

Do qui luật nhân quả mà vạn vật ở trong quá trình biến đổi không ngừng, thành, trụ, hoại, diệt ( sinh thành, biến đổi, tồn tại, tan rã và diệt vong). Quá trình đó phổ biến  khắp vạn vật, trong vũ trụ, nó là phương thức thay đổi chất lượng của sự vật và hiện tượng.

Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hoá vô thường của vạn vật, đã xây dựng nền thuyết “ nhân duyên”. trong thuyết “nhân duyên” có ba khái niệm chủ yếu là Nhân, Quả và Duyên.

- Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó, được gọi là Nhân.

- Cái gì tập lại từ Nhân được gọi là Quả.

- Duyên: Là điều kiện, mối liên hệ, giúp Nhân tạo ra Quả. Duyên không phải là một cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là sự tương hợp, điều kiện để giúp cho sự biến chuyển của vạn Pháp.

Ví dụ hạt lúa là cái quả của cây lúa đã thành, mà lại là cái nhân của cây lúa sắp thành. Lúa muốn thành cây lúa có bông lại phải nhờ có điều kiện và những mối liên hệ thích hợp như đất, nước, không khí, ánh sáng. Những yếu tố đó chính là Duyên.

Trong thế giới sinh vật, khi đã giải thích về nguyên nhân biến hoá vô thường của nó, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện đại tới tương lại. Phật giáo đã trình bày thuyết “ Thập Nhị Nhân Duyên” ( mười hai quan hệ nhân duyên) được coi là cơ sở của mọi biến đổi trong thế giới hiền sinh, một cách tất yếu của sự liên kết nghiệp quả.

+ Vô minh: ( là cái không sáng suốt, mông muội, che lấp cái bản nhiên sáng tỏ).

+ Hành: ( là suy nghĩ mà hành động, do hành động mà tạo nên kết quả, tạo ra cái nghiệp, cái nếp. Do hành động mà có thức ấy là hành làm quả cho vô minh và là nhân cho Thức).

+ Thức: ( Là ý thức là biết. Do thức mà có Danh sắc, ấy là Thức làm quả cho hành và làm nhân cho Danh sắc).

+ Danh sắc: ( Là tên và hành ta đã biết tên ta là gì thì phải có hình và tên của ta. Do danh sắc mà có Lục xứ, ấy danh sắc làm quả cho thức và làm nhân cho Lục xứ).

+ Lục xứ hay lục nhập: ( Là sáu chỗ, sáu cảm giác: Mắt, mũi, lưỡi, tai, thân và tri thức. Đã có hình hài có tên phải có Lục xứ để tiếp xúc với vạn vật. Do Lục nhập mà có xúc - tiếp xúc. ấy là Lục xứ làm quả cho Danh sắc và làm nhân cho Xúc.)

+ Xúc: ( Là tiếp xúc với ngoại cảnh qua sáu cơ quan xúc giác gây nên cmở rộng xúc, cảm giác. Do xúc mà có thụ ấy là xúc làm quả cho Lục xứ và làm nhân cho Thụ.)

+ Thụ: (Là tiếp thu, lĩnh nạp, những tác động bên ngoài tác động vào mình. Do thụ mà có ái. ấy là thụ làm quả cho Xúc và  làm nhân cho ái.)

+ Ái: (Là yêu, khát vọng, mong muốn, thích. Do ái mà có Thủ. Do ấy, ái làm quả cho Thụ và làm nhân cho Thủ.)

+ Thủ: ( Là lấy, chiếm đoạt cho minh. Do thủ mà có Hữu. Do vậy mà Thủ làm quả cho ái và làm nhân cho Hữu.)

+ Hữu: ( Là tồn tại, hiện hữu, ham, muốn, nên có dục gây thành cái nghiệp. Do Hữu mà có sinh, do đó Hữu là quả của Thủ và làm nhân của Sinh).

+ Sinh: ( Hiện hữu là ta sinh ra ở thế gian làm thần thánh, làm người, làm súc sinh. Do sinh mà có Tử, ấy là sinh làm quả cho Hữu và làm nhân cho Tử).

+ Lão tử: ( Là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu mà đã già là phải chết. Nhưng chết - sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác tan đi là hết nhưng linh hồn vẫn ở trong vòng vô minh. Cho nên lại mang cái nghiệp rơi vào vòng luân hồi ( khổ não).

Thập nhị nhân duyên như nước chảy kế tiếp nhau không bao giờ cạn, không bao giờ ngừng, nên đạo Phật là Duyên Hà. Các nhân duyên tự tập nhau lại mà sinh mãi mãi gọ là Duyên hà mãn. Đoạn này do các duyên mà làm quả cho đoạn trước, rồi lại do các duyên mà làm nhân cho đoạn sau. Bởi 12 nhân Duyên mà vạn vật cứ sinh hoá vô thường.

- Mối quan hệ Nhân - Duyên là mối quan hệ biện chứng trong không gian và thời gian giữa vạn vật. Mối quan hệ đó bao trùm lên toàn bộ thế giới không tính đến cái lớn nhỏ, không tính đến sự giản đơn hay phức tạp. Một hạt cát nhỏ được tạo thành trong mối quan hệ nhân quả của toàn vũ trụ. Cả vũ trụ hoà hơp tạo nên nó. Cũng như nó hoà hợp tạo nên cả vũ trụ bao la. Trong một có tất cả trong tất cả có một. Do nhân Duyên mà vạn vật sinh hay diệt. Duyên hợp thì sinh, Duyên tan thì diệt.

Vạn vật sinh hoá vô cùng là do ở các duyên tan hợp, hợp tan nối nhau mà ra. Nên vạn vật chỉ tồn tại ở dạng tương đối, trong dòng biến hoá vô tận vô thường vô thực thể, vô bản ngã, chỉ là hư ảo. Chỉ có sự biến đổi vô thường của vạn vật, vạn sự theo nhân duyên là thường còn không thay đổi.

Do vậy toàn bộ thế giới đa dạng, phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ cũng chỉ là dòng biến hoá hư ảo vô cùng, không có gì là thường định, là thực, là không thực có sinh, có diệt, có người, có mình, có cảnh, có vật, có không gian, có thời gian. Đó chính là cái chân lý cho ta thấy được cái chân thế tuyệt đối của vũ trụ. Thấy được điều đó gọi là “ chân như” là đạt tới cõi hạnh phúc, cực lạc, không sinh, không diệt, niết bàn.

Thế giới của chúng sinh (loài người) cũng do nhân duyên kết hợp mà thành. Đó là sự kết hợp của hai thành phần: Phần sinh lý và phần tâm lý.

- Cái tôi sinh lý tức là thể xác, hình chất với yếu tố “ sắc” (địa, thuỷ, hoá, phong) tức là cái cảm giác được.

- Cái tôi tâm lý (tinh thần) linh hồn tức là “tâm” với 4 yếu tố chỉ có tên gọi mà không có hình chất gọi là “ Danh”.

Trong “Sắc’ gồm những cái nhìn thấy được cũng như những thứ không nhìn thấy được nếu nó nằm trong quá trình biến đổi của “sắc” gọi là “vô biến sắc” như vật chất chuyển hoá thành năng lượng chẳng hạn.

Bốn yếu tố do nhân duyên tạo thành phần tâm lý (tinh thần) của con người là:

+ Thụ: Những cảm giác, cảm thụ về khổ hay sướng, đưa đến sự xúc chạm lĩnh hội thân hay tâm.

+ Tưởng: Suy nghĩ, tư tưởng.

+ Hành: ý muốn thúc đẩy hành động.

+ Thức: Nhận thức, phân biệt đối tượng tâm lý ta là ta.

Hai thành phần tạo nên từ ngũ uẩn do Nhân - Duyên tạo thành mỗi sinh vật cụ thể có danh và có sắc. Duyên hợp ngũ uẩn thì là ta. Duyên tan ngũ uẩn thì là diệt. Quá trình hợp tan ngũ uẩn do Nhân - Duyên là vô cùng tận.

- Các yếu tố của ngũ uẩn cũng luôn luôn biến hoá theo qui luật nhân hoá không ngừng không nghỉ, nên mọi sinh vật cũng chỉ là vụt mất, vụt còn. Không có sự vật riêng biệt, cố định, không có cái tôi, cái tôi hôm qua không còn là cái tôi hôm nay. Kinh Phật có đoạn viết “Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc là không, không là sắc. Thụ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế”.

Như vậy thế giới là biến ảo vô thường, vô định. Chỉ có những cái đó mới là chân thực, vĩnh viễn, thường hằng. Nếu không nhận  thức được nó thì con người sẽ lầm tưởng ta tồn tại mãi mãi, cái gì cũng thường định, cái gì cũng của ta. Do đó, mà con người cứ khát ái, tham dục cứ mong muốn và hành động chiếm đoạt tạo ra kết quả mà kết quả đó có thể tốt, có thể xấu gây nên nghiệp báo, rơi vào bể khổ triền miên không bao giờ dứt.

Sở dĩ có nỗi khổ là do qui định của Luật nhân quả. Vì thế mà ta không thấy được cái luật nhân bản của mình (bản thể chân thực). Khi đã mắc vào sự chi phối của Luật Nhân - Duyên, thì phải chịu nghiệp báo và kiếp luân hồi, luân chuyển tuần hoàn không ngừng, không dứt.

Triết học Phật giáo đã có phép biện chứng sắc sảo, đã nhìn thấy sự vận động, biến đổi của thế giới hiện tượng với khái niệm vô thường, đã vẽ lên một thế giới sinh động, đa dạng trong tính biến đổi tương đối. Tuy nhiên, triết học Phật giáo đã tác rời và cô lập hoàn toàn trạng thái đứng im, bất biến (chân không) với sự vận động, biến đổi (thế giới hiện tượng). Sự tách rời này làm mất đi sức sống, tính chân thực của vận động.

Triết học Phật giáo đã tìm thấy sự đối lập của các mặt trong sự đồng nhất của chúng, vạch ra được những mâu thuẩn nội tại của chúng như: bản thể tuyệt đối và thế giới hiện tượng, ý thức và vô thức, Niết bàn và vô minh, tự ngã và vô ngã, tam sai biệt và tâm tĩnh lặng… Song Phật giáo đã nhấn mạnh tính đồng nhất của chúng và coi sự đối lập chỉ là trạng thái biến thể của sự thống nhất mà thôi.

Phật giáo cũng có tư tưởng về quy luật chi phối thế giới con người đó là luật nhân quả. Song những quy luật được nhấn mạnh thái quá ơ bình diện đạo đức, tâm lý thiếu tính hiện thực và mang đậm màu sắc thần bí. Tóm lại biện chứng ở triết học Phật giáo là phép biện chứng tự phát, chưa hoàn chỉnh và chưa thoát khỏi hệ thống duy tâm, nên nó còn  mang nhiều ý nghĩa tiêu cực hơn là tích cực. Nhưng rõ ràng phép biện chứng ở Phật giáo đã là một bước phát triển cao hơn tư duy triết học của các trường phái khác ở Ấn Độ cổ đại.

Nội dung triết lý nhân sinh của Phật giáo được thể hiện tập trung trong thuyết “Tứ Diệu Đế” (Tứ thánh đế – Catvary Arya Satya) tức là 4 chân lý tuyệt diệu đòi hỏi mọi người phải nhận thức được Tứ diệu đế là: 

·        Khổ đế:

Chân lí về sự khổ, cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính chất khổ não, không trọn vẹn, cuộc đời con người là một bể khổ. Phật xác nhận đặc tướng của cuộc đời là vô thường, vô ngã  và vì vậy mà con người phải chịu khổ. Có 8 nỗi khổ là : sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ biệt khổ (yêu thương nhau phải xa nhau), oán tăng hội (ghét nhau phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn mà không đạt được) và ngũ thụ uẩn (do 5 yếu tố tạo nên con người).

     Như vây, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc của hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý về bản chất. Về phương triết học, khổ đau là một thực tại như thực đối với con người. khổ đế là một chân lý khách quan hiện thực. khổ hay hình thái bất an là kết quả hàng lọat nhân duyên được tạo tác từ tâm thức. Như vậy tri nhân thực tại là một cách trực tiếp đi vào soi sáng mọi hình thái khổ đau của con người. Để thấu hiểu triệt để cái căn nguyên của khổ đau, con người không thể dừng lại ở sự thật của đau khổ, hay quay mặt chạy trốn, mà phải đi vào soi sáng cái bản chất nội tại của nó.

Đạo Phật cho rằng đời là bể khổ, nỗi đau khổ là vô tận, là tuyệt đối. Do đó, con người ở đâu, làm gì cũng khổ. Cuộc đời là đau khổ không còn tồn tại nào khác. Ngay cả cái chết cũng không chấm dứt sự khổ mà là tiếp tục sự khổ mới. Phật ví sự khổ của con người bằng hình ảnh: “Nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước biển”.

·        Nhân đế (hay Tập đế):

là triết lý về sự phát sinh, nguyên nhân gây ra sự khổ. “Tập” là tụ hợp, kết tập lại. Nguyên nhân của khổ là sự ham muốn, tìm sự thoả mãn dục vọng, thoả mãn được trở thành, thoả mãn được hoại diệt… Các loại ham muốn này là gốc của luân hồi. Đạo Phật cho rằng nguyên nhân sâu xa của sự khổ, phiền não là do “thập nhị nhân duyên”, tức 12 nhân duyên tạo ra chu trình khép kín trong mỗi con người.  12 nhân duyên gồm:

1. Vô minh (không sáng suốt): đồng nghĩa với mê tối, ít hiểu biết, không sáng suốt. Không hiểu được đời là bể khổ, không tìm ra nguyên nhân và con đường thoát khổ. Trong mười hai nhân duyên, vô minh là căn bản. Nếu không thấu hiểu Tứ diệu đế cũng được gọi là Vô minh.

2. Duyên hành: là ý muốn thúc đẩy hành động.

3. Duyên thức: tâm từ trong sáng trở nên u tối.

4. Duyên danh sắc: sự hội tụ các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ quan cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).

5. Duyên lục nhập: là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác quan cảm giác, lúc đó thân sẽ sinh ra sáu cửa là: nhãn, nhĩ, tỳ, thiệt, thân để thiêu hủy, đón nhận.

6. Duyên xúc: là sự tiếp xúc của thế giới xung quanh sinh ra cảm giác. Đó là sắc, thinh, hương vị, xúc và pháp khi tiếp xúc, đụng chạm vào.

7. Duyên thụ: là sự cảm thụ, sự nhận thức khi thế giới bên ngoài tiếp xúc với lục căn sinh ra cảm giác.

8. Duyên ái: là yêu thích mà nảy sinh ham muốn, dục vọng trước sự tác động của thế giới bên ngoài.

9. Duyên thủ: do yêu thích quyến luyến, không chịu xa lìa, rồi muốn chiếm lấy, giữ lấy không chịu buông ra.

10. Duyên hữu: cố để dành, tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.

11. Duyên sinh: sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.

12. Duyên lão tử: khi đã sinh thì xác thân phải tiêu hoại mỏi mòn, trẻ rồi già, ốm đau rồi chết.

Thập nhị nhân duyên có nhiều cách giải thích khác nhau nhưng nhìn chung đều cho rằng chúng có quan hệ mật thiết với nhau, cái này là nhân, làm duyên cho cái kia, cái này là quả của cái trước, đồng thời là nhân cho cái sau. Cũng có lời giải thích là 12 yếu tố tích luỹ đưa đến cái khổ sinh tử hiện tại mà yếu tố căn đế là ái và thủ, nghĩa là tham lam, ích kỷ, còn gọi là ngã chấp. Mười hai nguyên nhân và kết quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng lẩn quẩn của nổi khổ đau nhân loại.

Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi, đều vô thường và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong chúng. Chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do lòng mình. Hay nói cách khác, tùy theo cách nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà có khổ hay không. Nếu không bị sự chấp ngã và dục vọng, vị kỹ hay phiền não khuấy động, chi phối, ngự trị trong tâm thì cuộc đời đầy an lạc hạnh phúc.

·        Diệt đế:

là chân lý về diệt khổ. Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ điều có thể tiêu diệt được để đạt tới trạng thái “niết bàn”. Một khi gốc của mọi tham ái được tận diệt thì sự khổ cũng được tận diệt.  muốn diệt khổ phải đi ngược lại 12 nhân duyên, bắt đầu từ diệt trừ vô minh.

Vô minh bị diệt, trí tuệ được bừng sáng, hiểu rõ được bản chất tồn tại, thực tướng của vũ trụ là con người, không còn tham dục và kéo theo những hành động tạo nghiệp nữa, tức là thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Nói cách khác diệt trừ được vô minh, tham dục thì hoạt động ngũ uẩn dừng lại, tu đến niết bàn, tịch diệt khi ấy mới hết luân hồi sinh tử.

Phật Giáo cho rằng, một khi người ta đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp thủ, thì những nỗi lo âu, sợi hải, bất an giảm dần, thâm tâm của bạn trở nên thanh thản, đầu óc tĩnh táo hơn; lúc đó nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản hơn, rộng lượng hơn. Đó là một hình thức hạnh phúc, cũng nhờ vậy tâm trí không bị chi phối bởi những tư tưởng chấp thủ, nhờ không bị nung núng bởi các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng sợ hải mà tâm lý của bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả năng nhận thức sự vật hiện tượng sâu sắc hơn, chính xác hơn, thâm tâm được chuyển hóa, thái độ ứng xử của bạn với mọi người xung quanh rộng lượng và bao dung hơn. Tùy vào khả năng giảm thiểu lòng tham, vô minh đến mức độ nào thì đời sống của bạn sẽ tăng phần hạnh phúc đến mức độ ấy.

·        Ðạo đế:

 là chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ. Đây là con đường tu đạo để hoàn thiện đạo đức cá nhân. Khổ được giải thích là xuất phát Thập nhị nhân duyên, và một khi dứt được những nguyên nhân đó thì ta có thể thoát khỏi vòng sinh tử. Chấm dứt luân hồi, vòng sinh tử đồng nghĩa với việc chứng ngộ niết bàn. Có 8 con đường chân chính để đạt sự diệt khổ dẫn đến niết bàn gọi là “Bát chính đạo”. Bát chính đạo bao gồm:

1.Chính kiến: hiểu biết đúng đắn và gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ diệu đế và giáo lí vô ngã.

2.Chính tư duy: suy nghĩ luôn có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý nghĩa của bốn chân lí một cách không sai lầm.

3.Chính ngữ: nói năng phải đúng đắn, không nói dối hay nói phù phiếm.

4.Chính nghiệp: giữ nghiệp đúng đắn, tránh phạm giới luật, không làm việc xấu, nên làm việc thiện.

5.Chính mệnh: giữ ngăn dục vọng đúng đắn, tránh các nghề nghiệp liên quan đến sát sinh.

6.Chính tinh tiến: cố gắng nổ lực đúng hướng không biết mệt mỏi để phát triển nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu.

7.Chính niệm: tâm niệm luôn tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát, luôn tỉnh giác trên ba phương diện Thân, Khẩu, Ý.

8.Chính định: kiên định, tập trung tư tưởng cao độ suy nghĩ về tứ điệu đế, vô ngã, vô thường, tâm ý đạt bốn định xuất thế gian .

Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ vô minh, đạt tới sự giải thoát, nhập vào niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng suốt, chấm dứt sinh tử luân hồi.

Ngoài ra Phật giáo còn đưa ra 5 đều nhằm răn đe đem lại lợi ích cho con người và xã hội. Chúng bao gồm: bất sát (không sát sinh), bất dâm (không dâm dục), bất vọng ngữ (không nói năng thô tục, bậy bạ), bất âm tửu (không rượu trà) và bất đạo (không trộm cướp).

Như vậy, Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần, có yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng của thế giới. Phật giáo khuyên con người suy nghỉ thiện và làm việc thiện nhằm góp phần hoàn thiện đạo đức cá nhân. Tuy nhiên trong triết lý nhân sinh và con đường giải phóng của phật giáo vẫn mang nặng tính chất bi quan không tưởng  và duy tâm về xã hội. Và những tư tưởng xã hội phật giáo đã phản ánh thực trạng xã hội đẳng cấp khắc nghiệt của xã hội Ấn Độ cổ – trung đại và nêu lên ước vọng giải thoát nổi bi kịch cho con người lúc đó. Phật giáo cũng nói lên được tự do bình đẳng trong xã hội nhưng triết lý nhân sinh vẫn còn mang nặng tính chất bi quan không tưởng và duy tâm về xã hội.

Câu 2 Phân tích nội dung liên hệ về mối liên hệ phổ biến. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý này Anh Chị phân tích nguyên nhân của biến đổi khí hậu toàn cầu hiện nay.

a)    Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến

Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới; còn khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biển của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng. Đó là các mối liên hệ giữa các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng, v.v..

Như vậy, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù, vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định. Đồng thời, cũng tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó những mối liên hệ đặc thù là sự thế hiện những môi liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định. Toàn bộ những mối liên hệ đặc thù và phố biến đó tạo nên unh thống nhất trong tính đa dạng và ngược lại, tính đa dạng trong tính thống nhất của các mối liên hệ trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy.

b)    Tính chất của các mối liên hệ

 Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính chất cơ bản của các mối liên hệ.

- Tính khách quan của các mối liên hệ Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tôn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các môi liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.

- Tinh phổ biến của các mối liên hệ

Theo điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác. Đồng thời, cũng không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thông, bao gồm những yếu tố cấu thành với những môi liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là mọt hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong môi liên ne với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.

- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ

Quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác không chỉ khăng định tính khách quan, tính phổ biến của các mối liên hệ mà còn nhấn mạnh tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ. Tính đa dạng, phong phú của các quan Lênin mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể.

khác nhau, giữ Vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật, hiện tượng nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vẫn động, phát triển của sự vật, hiện tượng thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau. Như vậy, không thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối với mỗi sự vật, hiện tượng nhất định, trong những điều kiện xác định. Đó là các mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, liên hệ chủ yếu và thứ yếu, mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp, v.v. của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới. 6 Quan điểm về tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan niệm về sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên hệ đặc thù mỗi mối trong sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể.

c)     Ý nghĩa phương pháp luận

Từ tính khách quan và phố biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải có điểm toàn diện.

Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật, hiện tượng và trong sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với các Sự vật, hiện tượng khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật, hiện tượng và xử lý có hiệu quả các quan.

vấn đề của đời sống thực tiễn. Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận hiểu được sự vật, cần thức và thực tiễn. V.I.Lênin cho rằng: "Muốn thực sự phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và "quan hệ gián tiếp" của sự vật đó"!. - Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.

Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình huông phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải Xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để từ đó có được những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận thức và thực tiễn không những cần phải tránh và khắc phục quan điểm phiến diện, siêu hình mà còn phải tránh và khắc trung, ngụy biện. phục quan điểm chiết trung nguỵ biện.

 

Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý này Anh Chị phân tích nguyên nhân của biến đổi khí hậu toàn cầu hiện nay.

Những biểu hiện của biến đổi khí hậu

Nắm rõ các biểu hiện của biến đổi khí hậu toàn cầu cũng như biến đổi khí hậu Việt Nam sẽ giúp mỗi người dân tự ý thức được mức độ nguy hiểm của vấn đề đang xảy ra, chứ không phải chỉ là trên giả thuyết.

Biểu hiện của biến đổi khí hậu toàn cầu

Nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng cao

Tình hình biến đổi khí hậu toàn cầu hiện nay ngày càng chuyển biến theo chiều hướng xấu, điển hình là sự nóng lên trái đất Nói cách khác, nhiệt độ trung bình ngày càng tăng cao do sự nóng lên của bầu khí quyển chính là một trong những biểu hiện của biến đổi khí hậu toàn cầu.

Phát biểu về vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu hiện nay vào ngày 23/9/2019, chuyên viên khoa học cấp cao của Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) – ông Omar Baddour cho biết, nhiệt độ trung bình toàn cầu đang trên đà chạm mức tăng ít nhất từ 1.2 – 1.3 °C so với mức của thời kỳ tiền công nghiệp trong 5 năm tới.

WMO cũng cho biết thêm, trong giai đoạn 2015 – 2019 nhiệt độ trung bình toàn cầu có xu hướng cao kỷ lục, cao hơn 0.2 °C so với giai đoạn từ năm 2011 – 2015. Dự đoán tốc độ tăng nhiệt sẽ không dừng lại, trái đất sẽ tiếp tục nóng lên.

 

Hạn hán xuất hiện nhiều nơi trên Trái Đất

Biểu hiện biến đổi khí hậu trên Trái Đất tiếp theo là hạn hán ngày càng gia tăng ở nhiều vùng, miền trên thế giới. Đây chính là thực trạng biến đổi khí hậu toàn cầu rất nguy hiểm, đe dọa sự sống của con người và sinh vật.

Kể từ năm 1970, diện tích chịu sự ảnh hưởng của hạn hán ngày càng gia tăng. Biểu hiện của hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu này dễ dàng nhận thấy nhất ở các nước khu vực Châu Âu, phía Tây của Hoa Kỳ và Châu Úc.

Lượng mưa tăng giảm thất thường

Trái ngược với hạn hán thì lượng mưa gia tăng và thay đổi thất thường cũng chính là biểu hiện biến đổi khí hậu trên thế giới mà quý khách nên bổ sung thêm vào kho tàng kiến thức của mình ngay hôm nay.

Theo đó, thay vì mưa theo quy luật vào một số mùa nhất định trong năm thì hiện nay thường xuất hiện những cơn mưa lớn trái mùa ở nhiều khu vực trên thế giới. Thống kế từ 1900 – 2005, tại các khu vực phía Bắc vĩ độ 30°N lượng mưa có xu hướng gia tăng gây lũ lụt, trong khi đó lượng mưa vùng nhiệt đới lại có xu hướng giảm khiến nguồn nước tưới tiêu khan hiếm.

Mực nước biển dâng cao, axit hóa đại dương

Biến đổi khí hậu nguyên nhân và biểu hiện mực nước biển dâng cao là do nhiệt độ tăng cao và băng tan khiến nước bị giãn nở. Theo nguồn thông tin chính thống của NASA, dự đoán đến năm 2100, mực nước có khả năng dâng cao thêm 0.3 – 1.2m.

Bên cạnh đó, sự phát thải khí CO2 của con người vào tầng khí quyển cũng khiến lượng CO2 bị hấp thụ ở đại dương tăng dẫn đến hiện tượng axit hóa đại dương. Hiện nay, mỗi năm tỷ lệ CO2 bị hấp thụ vào đại dương tăng 2 tỷ tấn.

Liên tục xuất hiện các hiện tượng thời tiết cực đoan

Thêm một biểu hiện của biến đổi khí hậu toàn cầu điển hình nữa, đó là sự xuất hiện các hiện tượng thời tiết cực đoan. Có thể là sự gia tăng đột biến về cả số lượng và cường độ của những cơn bão lớn, mưa đá, lốc xoáy, hiện tượng EL Nino … mỗi năm. Bắc Băng Dương, Ấn Độ Dương và các khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương … là những trọng điểm quý khách có thể nhìn thấy rõ nét nhất những hiện tượng thời tiết cực đoan khiến toàn thế giới hoang mang, lo sợ.

Các nguyên nhân gây biến đổi khí hậu toàn cầu:

Nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu toàn cầu có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Bao gồm:

Quỹ đạo Trái đất thay đổi

Trái Đất tự quanh quanh Mặt Trăng và quay xung quanh trục của nó nghiêng một góc 23.5 độ. Bất kỳ sự thay đổi nào ở các tham số quỹ đạo Trái Đất đều là nguyên nhân biến đổi khí hậu toàn cầu.

Tuy nhiên, sự thay đổi chuyển động Trái Đất diễn ra khá chậm chạp, cụ thể sự thay đổi độ lệch tâm có chu kỳ lên đến 96.000 năm, độ nghiêng trục dao động khoảng 41.000 năm, tiến động của trục Trái Đất khoảng 19.000 – 23.000 năm.

Thay đổi dòng hải lưu ở đại dương

Biến đổi khí hậu nước biển dâng là một trong những biểu hiện điển hình, bởi đại dương là nền tảng quan trọng của hệ thống khí hậu, dòng hải lưu giữ vai trò vận chuyển một lượng lớn nhiệt trên khắp hành tinh. Do đó, sự thay đổi trong lưu thông ở dòng hải lưu trong đại dương cũng chính là nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu toàn cầu.

Sự thay đổi về phát xạ của mặt trời và hấp thụ bức xạ của trái đất

Thêm một nguyên nhân của biến đổi khí hậu và nóng lên toàn cầu nữa, đó là sự thay đổi phát xạ của mặt trời và sự hấp thụ bức xạ của trái đất. Theo đó, phát xạ của mặt trời yếu đi sẽ gây ra băng hà, còn phát xạ mặt trời mãnh liệt dẫn đến khí hậu khô và nóng trên bề mặt trái đất. Cùng với đó, các vết đen trên mặt trời sẽ làm cường độ bức xạ mặt trời chiếu xuống trái đất thay đổi, dẫn đến thay đổi về khí hậu.

Do các hoạt động địa chất, phun trào núi lửa

Qua các thời kỳ địa chất do quá trình kiến tạo, phun trào núi lửa, sự trôi dạt của các lục địa … bề mặt Trái Đất cũng sẽ bị biến dạng, dẫn đến thay đổi trong phân bố lục địa – đại dương, Khi hình thái bề mặt Trái Đất thay đổi thì sự phân bố bức xạ mặt trời và cân bằng nhiệt cũng biến đổi.

Bên cạnh đó, khí và tro được tạo ra khi núi lửa phun trào vào khí quyển có thể ảnh hưởng tiêu cực đến khí hậu trong nhiều năm. Đồng thời, các SOL khí do núi lửa phản chiếu bức xạ mặt trời trở lại vào không gian cũng làm giảm nhiệt độ lớp bề mặt Trái Đất.

Những tác động của con người

Bên cạnh 4 nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu toàn cầu khách quan ở trên thì còn có nguyên nhân chủ quan do những tác động tiêu cực của con người đối với môi trường. Bởi vì, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu có mối liên quan mật thiết.

Cụ thể, đó là tất cả những hoạt động phát thải quá mức các khí nhà kính như CO2, CH4, N2O, HFCs, PFCs … vào bầu khí quyển khiến trái đất nóng lên và bị thay đổi khí hậu do hiện tượng hiệu ứng nhà kính.

Mặt khác, rừng và biến đổi khí hậu cũng có mối liên kết với nhau. Nạn chặt phá rừng, đốt rừng cũng là nguyên nhân trực tiếp gây ra biến đổi khí hậu toàn cầu hiện nay. Lý do, rừng chính là “Lá phổi xanh” của Trái Đất, có tác dụng hấp thụ CO2.

Đặc biệt, trong thời kỳ tiền công nghiệp, con người đã sử dụng rất nhiều nguồn nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí đốt) vì thế tốc độ phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính gia tăng mạnh, khiến trái đất ngày một nóng hơn.

Đến năm 2011, nồng độ khí nhà kính tăng 40% ppb, CH4 (metan) tăng 150% và N2O tăng 20% so với thời kỳ tiền công nghiệp. Đây là mức tăng khủng khiếp chưa từng có trong suốt 22.000 năm qua.

 

Đề xuất một số biện pháp chống biến đổi khí hậu toàn cầu

Gây ra rất nhiều hậu quả nghiêm trọng cho nhân loại nên biến đổi khí hậu và cách khắc phục luôn là mối quan tâm hàng đầu của những người dân gương mẫu. Sau đây Thanh Bình xin được đề xuất một số biện pháp ngăn chặn, phòng chống biến đổi khí hậu toàn cầu để quý khách cùng tham khảo.

 

 

Bảo vệ rừng, tích cực trồng cây xanh

Rừng và biến đổi khí hậu có ảnh hưởng qua lại, nếu hệ sinh thái rừng bị suy thoái thì sẽ gia tăng tình trạng ô nhiễm môi trường vì không còn “lá phổi xanh” để hấp thụ khí CO2 c – một trong những loại khí gây hiệu ứng nhà kính chủ yếu khiến trái đất ngày càng nóng lên.

Chính vì thế, bảo vệ rừng và trồng thêm cây xanh có khả năng hấp thụ CO2 cao là giải pháp ứng phó, khắc phục và chống biến đổi khí hậu toàn cầu mà mỗi người dân, mỗi quốc gia trên thế giới đều phải nghiêm túc thực hiện.

Hạn chế sử dụng các nhiên liệu hóa thạch

Biện pháp khắc phục biến đổi khí hậu toàn cầu thứ hai là hạn chế tối đa việc sử dụng các loại nhiên liệu hóa thạch như than, dầu mỏ, đá phiến, khí đốt. Bởi vì đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến phát tán các chất gây hiệu ứng nhà kính và biến đổi khí hậu toàn cầu.

Khai thác các nguồn năng lượng sạch

Sử dụng năng lượng sạch là cách khắc phục và cũng là biện pháp chống biến đổi khí hậu toàn cầu đe dọa sự sống còn của toàn thể nhân loại. Năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng thủy triều … là những nguồn năng lượng từ thiên nhiên, vô cùng thân thiện với môi trường sống của trái đất.

Liên tục cập nhật thông tin về biến đổi khí hậu

Cập nhật thường xuyên các thông tin về biến đổi khí hậu là biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu một cách chủ động. Quý khách có thể tìm hiểu về những chính sách biến đổi khí hậu ở địa phương, quốc gia mình đang sinh sống hoặc theo dõi các cuộc họp bảo vệ môi trường mang tính quốc tế như Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu, hoặc trực tiếp tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường.

Thực hiện chính sách tiết kiệm điện

Thêm một biện pháp để ứng phó, giảm nhẹ biến đổi khí hậu mà ai trong số chúng ta cũng đều làm được. Theo đó, quý khách có thể sử dụng nguồn ánh sáng mặt trời vào ban ngày thay vì dùng điện để thắp sáng, khi ra khỏi phòng nên tắt các thiết bị đang chạy bằng điện, sử dụng đèn compact thay vì đèn neon và đèn sợi đốt.

Chuyển đổi mô hình trồng trọt, chăn nuôi

Còn đây là cách khắc phục, phòng chống biến đổi khí hậu ở Việt Nam và các nước có nền nông nghiệp lúa nước vô cùng thông minh. Chúng ta có thể thay các loại cây trồng dài hạn bằng cây trồng ngắn hạn để tránh bão lũ, sử dụng nhóm cây có khả năng chịu mặn, chịu phèn tốt.

Trong chăn nuôi, quý khách nên xây dựng hầm biogas cải tiến, hầm cầu tự hoại để ngăn chặn phân thải xả trực tiếp ra môi trường làm khí gây hiệu ứng nhà kính gia tăng, dẫn đến những biến đổi khí hậu khôn lường.

 

 

 

Ưu tiên mua các thiết bị có dán nhãn tiết kiệm năng lượng

Đây cũng là cách ứng phó với biến đổi khí hậu hữu hiệu. Ví dụ, khi sử dụng một chiếc tủ lạnh có dán nhãn tiết kiệm năng lượng nghĩa là quý khách đã giảm được gần một nửa tấn khí CO2 mỗi năm so với việc sử dụng một chiếc tủ lạnh thông thường.

Làm việc gần nhà và dùng phương tiện giao thông công cộng

Nếu làm việc gần nhà, quý khách có thể đi bộ hoặc đi xe đạp thay vì di chuyển bằng xe máy, ô tô nên sẽ hạn chế tối đa việc phát thải các khí gây ô nhiễm môi trường. Trường hợp làm việc xa nhà thì chọn các phương tiện giao thông công cộng để lưu thông cũng là biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu cần tuyên dương.

Cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng

Theo thống kê khoa học, nhà ở chiếm tới ⅓ lượng phát tán khí thải gây ra hiện tượng nhà kính dẫn đến biến đổi khí hậu. Vì vậy, giải pháp khắc phục biến đổi khí hậu tiếp theo là cải tạo cơ sở hạ tầng, xây dựng nhà ở thân thiện môi trường, sử dụng cầu thang điều chỉnh nhiệt, tăng cường hệ thống chống ồn… Các công trình cầu đường cũng nên được đầu tư thỏa đáng để đảm bảo lưu thông thuận lợi, giảm thải nguồn nhiên liệu tiêu thụ cho xe cộ.

Không sử dụng hoặc hạn chế sử dụng túi nilon

Túi nilon gây tác hại cho môi trường ngay từ khâu sản xuất vì phải sử dụng nguyên liệu dầu mỏ và khí đốt, các chất phụ gia, phẩm màu, kim loại nặng. Do đó, không sử dụng hoặc hạn chế sử dụng túi nilon là một trong những biện pháp ngăn chặn, phòng chống, giảm nhẹ hậu quả của biến đổi khí hậu mà chúng ta nên thực hiện ngay từ hôm nay.