TRANG THÔNG TIN LUẬN ÁN
“Triết học ấn độ cổ đại-nội
dung, đặc điểm
và ý nghĩa lịch sử”
Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 62.22.03.01
Họ và tên nghiên cứu sinh: TRỊNH THANH
TÙNG
Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. LƯƠNG
MINH CỪ
TS. PHẠM LÊ QUANG
Cơ sở đào tạo: TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
XH & NV-ĐHQG. HỒ CHÍ MINH
1.Tóm
tắt nội dung luận án
Là một
trong những hình thái ý thức xã hội, triết học Ấn Độ hình thành, phát triển và
nội dung, đặc điểm của nó tất yếu bị chi phối và phản ánh những điều kiện tự nhiên, điều kiện khí hậu đa dạng, khắc
nghiệt cùng với sự quy định và ảnh hưởng sâu sắc bởi điều kiện lịch sử
- xã hội Ấn Độ khá đặc biệt thời cổ đại. Đó là chế độ nô lệ mang tính chất gia
trưởng hà khắc, lại bị kìm hãm bởi công xã nông thôn và chế độ phân biệt đẳng cấp
xã hội - chế độ varna, hết sức khắt khe.
Quá trình hình thành, nội dung và đặc điểm của triết học Ấn Độ còn dựa trên
sự phát triển của nền văn minh Ấn Độ cổ, từ thời kỳ văn minh sông Ấn
(thiên niên kỷ III tr. CN đến thiên kỷ II tr. CN) qua nền văn minh Veda - Sử thi (khoảng thế kỷ XV tr. CN - thế kỷ VI tr. CN), đến thời kỳ Phật giáo - Bàlamôn giáo (thế kỷ VI tr. CN -
thế kỷ III sau CN), với thành tựu khoa học
và văn hóa nổi bật trên các lĩnh vực như: thiên văn học, lịch pháp, toán học, y
học, văn học, nghệ thuật, kiến trúc...
Tất cả luôn tác động và ghi dấu ấn sâu đậm đến nội dung, đặc điểm của
triết học Ấn Độ cổ đại.
Trên cơ sở điều kiện và tiền đề đó, triết học Ấn
Độ cổ đại đã hình thành, phát triển và trải qua hai thời kỳ: Thời kỳ Veda -
Sử thi (từ thế kỷ XV trước CN đến thế kỷ VI trước CN) triết học Ấn Độ được thể hiện trong kinh Veda, Upanishad, trong Sử thi
cổ Ấn Độ Ràmàyana và Mahàbhàrata, trong đó thế giới quan thần thoại tôn giáo mang tính chất đa thần tự nhiên chiếm địa
vị thống trị. Và sau đó là sự biến chuyển từ thế giới quan đa thần sang nhất thần và cuối cùng hòa trộn với nó là thuyết nhất nguyên, với quan niệm về “Tinh thần vũ
trụ tối cao” là bản thể của thế giới, đánh
dấu bước chuyển từ tư duy thần thoại tôn giáo sang tư duy triết học. Thời kỳ Cổ điển hay thời kỳ Phật giáo - Bàlamôn
giáo (từ thế kỷ VI trước CN đến thế kỷ III sau C.N) là thời kỳ hình thành các trường phái
triết học lớn như: Sànkhya, Vais’esika, Nyàya, Yoga, Mimàmsà và Vedànta,
gọi là các darsanas hay hệ thống triết học chính thống (as’tika), và các môn phái
Jaina, Lokàyata và Phật giáo.., gọi là hệ thống triết học không chính thống (nas’tika), đi sâu lý giải về thế giới và nhân sinh hệ thống chặt chẽ hơn.
Qua bức tranh khái quát về triết học Ấn Độ cổ đại, có thể thấy rõ một số đặc điểm
chủ yếu: Nếu xem xét triết học Ấn Độ ở
tổng thể và tính chất, ta thấy triết học Ấn Độ
cổ đại vừa mang tính thống nhất vừa mang tính đa dạng. Trên cùng cơ sở xã hội và một mục đích
chung là đi tìm lẽ sống cho nhân sinh, nhưng các trường phái triết học Ấn Độ
lại phát triển theo các khuynh hướng và tính chất khác nhau. Có trường phái nhất nguyên như Vedànta nhưng cũng có
những phái nhị nguyên hay đa nguyên như Jaina, Sànkhya, Vaise’sika; có những
trường phái duy tâm triệt để như Vedànta, Yoga, nhưng cũng có trường phái duy
vật triệt để như Lokàyata và những trường phái vừa giải thích thế giới bằng sự
tiến hóa của vật chất do sự kết hợp hay phân rã của nguyên tử, vừa đề cao
Thượng đế; có trường phái đề cao phương pháp rèn luyện đạo đức và trí tuệ, trực
giác như phái Vedànta, có những trường phái đi sâu phương pháp tiếp cận chân lý
bằng học thuyết nhận thức và lô gích học đặc sắc như Vais’esika, Nyàya. Trường phái Jaina cho rằng dục vọng và vật dục dẫn tới sự đau
khổ, do vậy phải tu luyện theo luật ahimsa. Trong khi đó,
Phật giáo vừa không thừa nhận thế giới quan thần quyền vừa chủ trương vạn pháp đều do nhân duyên tác động cho nên “vô thường”, “vô ngã”. Và, căn cứ của nhân duyên là
ở tâm chúng ta. Do đó, muốn giải thoát, con người phải cắt đứt nhân duyên, xóa
vô minh, diệt dục vọng bằng “Bát chính đạo”, để đạt tới cái tâm thanh tịnh,
giác ngộ, giải thoát và Niết bàn. Nếu tiếp cận
triết học Ấn Độ ở phương diện động lực, chúng ta thấy sự cạnh tranh, kế
thừa giữa các trường
phái triết học duy vật, vô thần như “Lục sư ngoại đạo”, Càrvàka với các trường phái triết học duy tâm, tôn giáo như triết lý Veda, Upanishad, giáo lý đạo Bàlamôn, triết lý Vedànta, là đặc điểm xuyên suốt của triết học Ấn Độ cổ. Nếu xem xét
triết học Ấn Độ ở mặt giá trị, triết lý đạo đức nhân sinh và mục đích tối
cao là giải thoát con người khỏi nỗi khổ, trên bình diện tinh thần, tâm linh, bằng con đường tu luyện đạo đức (karma-yoga),
trí tuệ (prajna-yoga) và tín ái (bhakti-yoga), là đặc điểm trung tâm của triết học
Ấn Độ cổ đại.
Với nội dung và đặc
điểm trên, triết học Ấn Độ cổ đại thực sự có ý nghĩa to lớn trên nhiều mặt. Về mặt tư tưởng, triết học Ấn Độ cổ đại đã nghiên cứu, làm sáng tỏ hầu hết các lĩnh vực
cơ bản của triết học, do đó, nó đã góp phần vào mài sắc tư duy, phát triển
nhận thức, làm phong phú và sâu sắc những quan điểm về thế giới và
nhân sinh trong triết học Ấn Độ. Về
mặt tôn giáo, triết học Ấn Độ với tư cách là khoa học đi tìm chân lý, bao
giờ cũng là cơ sở triết lý cho một tôn giáo nào đó. Còn tôn giáo chính là sự
thể nghiệm chân lý đó, biến triết lý đó thành đạo lý, đức tin bằng sự tu luyện
đạo đức, trí tuệ trực giác, thông qua giáo lý, giới luật và các lễ nghi tôn
giáo. Về mặt đạo đức, triết học
Ấn Độ cổ đại luôn quan tâm đến
con người, đưa ra các phương pháp rèn luyện hoàn thiện con người, cố gắng xây
dựng cho con người mục đích, lý tưởng sống và những quan hệ và
chuẩn mực cao đẹp.
2. Những kết quả mới của luận án
Một
là, trên cơ sở sơ sở xã hội và tiền đề lý luận hình thành, phát triển của
triết học Ấn Độ cổ đại luận án đã tập trung làm rõ những nội dung cơ bản và
những đặc điểm chủ yếu của triết học cổ Ấn Độ cổ đại, qua hai thời kỳ thời kỳ
Véda - Sử thi hay Veda - Anh hùng ca và thời kỳ Cổ điển hay thời kỳ Phật giáo,
Bàlamôn giáo. Hai là, luận án đã phân
tích, đánh giá chỉ ra những ý nghĩa lịch sử của triết học Ấn Độ cổ đại, về mặt
lý luận và thực tiễn; trên các phương diện tư tưởng, tôn giáo và đạo đức nhân
sinh.
3. Khả năng ứng dụng của luận án
Nghiên
cứu triết học Ấn Độ cổ đại một cách hệ thống nội dung, đặc điểm và ý nghĩa của
nó, giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn truyền thống văn hóa của dân tộc Ấn Độ,
góp phần củng cố và phát triển sâu rộng tình hữu nghị giữa hai dân tộc: Việt
Nam và Ấn Độ; qua đó giúp chúng ta nhận thức rõ hơn, với tinh thần yêu nước và lòng
tự hào về những giá trị văn hóa dân tộc, dân tộc Việt Nam đã tiếp thu có chọn
lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, trong đó có văn hóa của dân tộc Ấn Độ như thế
nào, để làm phong phú và sâu sắc hơn nền văn hóa dân tộc mình.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 12 năm 2018
Xác nhận của cán bộ hướng dẫn khoa học Nghiên cứu sinh
PGS,TS LƯƠNG MINH CỪ TRỊNH THANH
TÙNG
TS. PHẠM LÊ QUANG